PHẠM PHÚ PHONG
Nguyên Du là sinh viên khóa 5 (1981 - 1985) khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay là Đại học Khoa học).
Lớp anh có nhiều người theo đuổi nghiệp văn, trở thành những cây bút tên tuổi như Trần Quang Khanh, Võ Thị Hải, trong đó Hồ Thế Hà là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam; nhiều người “không chịu ra trường” mà ở lại với ngành giáo dục, trở thành các phó giáo sư hoặc tiến sĩ như Bùi Mạnh Hùng, Hồ Thế Hà, Nguyễn Thành, Trần Trung Hỷ, Lê Thị Tuyết Ba... Riêng Nguyên Du chọn nghề làm báo phát thanh, từ phóng viên rồi trưởng thành dần, trở thành Giám đốc Đài Phát thanh Truyền hình tỉnh Thừa Thiên Huế. Nay cũng đã gần đến tuổi nghỉ hưu, anh vẫn chưa hề nguội lạnh đối với văn chương, khi bỗng nhiên cùng một lúc, anh cho ra mắt bạn đọc 3 tập tản văn viết về xứ Huế: Nhất Huế nhì Sịa, Tiếng dạ tiếng thương và Bí bầu lớn xuống, cả 3 tập đều được nhà xuất bản Thanh niên ấn hành vào quý 1, năm 2021.
Ba tập sách với gần 750 trang, đều không được tác giả xác định thể loại. Bản năng sáng tạo đôi khi vô căn, vô thức. Nhà văn cứ viết như họ nghĩ, cứ thể hiện ra trang giấy những gì họ có; trải rộng những gì đang chật ứ, quẫy đạp trong tâm hồn, không viết ra không chịu được, còn thể văn gì dường như ít được người viết quan tâm. Gọi tên các thể văn là công việc “nặng nhọc”, đầy tính “võ đoán” của những người làm lý thuyết văn chương, mà đôi khi nó xám xịt và khiên cưỡng, áp đặt theo một khuôn mẫu có sẵn, bởi không thể có cái khuôn nào đáp ứng đầy đủ sự phong phú, đa dạng, đa sắc màu và cung bậc của đời sống, “phản chiếu” một cách tương ứng trong thế giới nghệ thuật. Nhà thơ Chilé Pablo Neruda (Nobel văn chương 1971), từng nói rằng: “Không có gì rót đầy lên tất cả/ Những cốc kia tinh khiết vô ngần”. Ở đây, tôi không phải là người cố “gọt chân cho vừa giầy” nhưng đọc Nguyên Du, với lối cắt dán, lắp ráp những truyện không đầu không cuối, lan man chuyện nọ xọ chuyện kia, xoay quanh cảm quan và tâm thức sáng tạo của tác giả, có thể được coi là những tản văn đầy ắp sự kiện, theo kiểu của Nguyên Du, bắt đầu từ đất đến người và cỏ cây, hoa trái của xứ đế đô.
1. Nhất Huế nhì Sịa gồm có 45 bài, chia làm ba phần, dọc theo cái nhìn trong tâm thức người viết, cũng là để đưa bước chân người đọc dạo quanh từ Phố xá thân quen, ra đến Miền ngoại ô, rồi cuối cùng là Về quê ngoại, ở một vùng đất mà từ những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ trước chỉ xếp sau thành phố Huế, trong câu nói cửa miệng của mọi người, được anh lấy làm tựa đề cho tác phẩm là Nhất Huế nhì Sịa!
Phố xá thân quen của Nguyên Du là thành phố Huế. Huế vẫn là nhất, là trung tâm, là nơi nung nấu và níu giữ tâm hồn người đến với văn chương và đi tìm cái đẹp. Nơi đây không còn là không gian địa lý, không gian sinh hoạt, gắn liền với thời gian bốn mùa mưa nắng đỏng đảnh đan xen, mà đã trở thành không/ thời gian nghệ thuật khi nó lắng đọng và lấp lánh qua tâm hồn nồng nàn men rượu hoài cảm của Nguyên Du. Vì vậy, anh dành cho phần này đến 22 bài, gắn liền với các địa danh như ga Huế, dinh tỉnh trưởng, đài phát thanh, ngã sáu, ngã giữa, trong đó có những địa danh hoặc tên gọi chỉ có Huế mới có như Bến Ngự, Phủ Cam, An Cựu, Kho Rèn, Dã Viên, Bạch Hổ, Gia Hội, Trường Tiền, Quốc Học, sân vận động Tự Do... Địa danh lay động và chắt lọc qua tâm thức của người viết hiển ngôn thành câu chữ, không còn đơn thuần là tên gọi của vùng đất, ngôi trường, đường phố, chiếc cầu, dòng sông, cỏ cây hoa lá... mà còn là con người, những nhân vật, trong đó có cả những danh nhân và vô danh, những huyền tích, những sự tích văn hóa - lịch sử, là tâm thức văn hóa nhân văn của thổ ngơi, xứ sở, được dẫn dắt một cách chậm rãi thông qua cảm quan nồng ấm cảm xúc, chất chứa đa cảm, đa mang của tác giả. Huế hiển hiện ra trong những “khuôn hình” đẹp lung linh, thấm đẫm tính nhân văn, có chút kín đáo, dịu dàng nhưng cao sang và đài các như những thước phim quay chậm, nằm vắt ngang hai thế kỷ đầy những biến động, đổi thay: “Một sáng nào đó về đây ăn bún mệ Kéo, vào quán cafe Papa trưng bày nhiều tranh của họa sỹ hoàng tộc tài hoa, nhìn qua ô cửa nhỏ, bạn sẽ thấy dòng chảy thời gian như ngưng đọng bởi nét cổ xưa, đầy hoài niệm. Với người từ xa đến có thể dạo bước dưới bóng chiều tà, để thấm đẫm những giá trị vẹn nguyên một thời nơi phố cổ, không mênh mang như Phước Tích, không cũ kỹ như Bao Vinh mà gần gũi, ấm áp, nồng nàn như hương phố, hồn người” [Hồn phố Gia Hội, tr.82]. Không, phải nói là thời gian thì đứng yên nhưng con người và cuộc sống, mọi thứ đều vận động đổi thay, không có cái gì là vĩnh cửu muôn đời. Dưới góc nhìn của Nguyên Du, mọi đổi thay là tất yếu, nhưng vẫn ẩn chứa đầy những ưu tư, nuối tiếc khôn nguôi: “ Việc xóa kiến trúc lâu đời ở chân cầu phía Nam Trường Tiền năm 2010 đã giúp cho không gian bờ sông, chân cầu thoáng đãng để rộng nhìn dòng Hương lặng lờ tình tự, để có thêm nhiều bóng xanh nâng dáng phượng hồng một thời hoa đỏ! Vậy mà tôi vẫn thấy tiếc nhiều và trống vắng mỗi lần ngang qua vì không gian ký ức xưa không còn nữa! Đây là một trong những kiến trúc đầu tiên của Pháp ở bờ Nam sông Hương khi chưa có cầu Trường Tiền và các kiến trúc khác xung quanh” [Đài Phát thanh Huế, tr.48]. Thay đổi để phát triển là chuyện hẳn nhiên, tất yếu, nhưng cũng có cái thay đổi mang sai lầm một cách đáng tiếc, do hạn chế của những tầm nhìn văn hóa. Ví như, chúng ta đang nỗ lực xây dựng một thành phố di sản, nhưng di sản kiến trúc phương Tây ở các con đường Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Hà Nội đã và đang bị triệt phá. Nhưng với con người “lành tính” như Nguyên Du, anh không trách cứ mà chỉ nhẹ nhàng tiếc nuối khi bỗng chốc mất đi cái nơi “trước đây là trung tâm của thành phố mới ở bờ Nam với những kiến trúc Pháp quanh đây” và xúc động nói rằng: “Huế đã mất con đường bằng lăng mười năm rồi khi đường Lý Thường Kiệt mở rộng trồng cây so đo cam, hoa đỏ xốn xang, đường Đống Đa cây sưa vàng mới 5 giờ chiều đã ngủ, rủ lá buông cành! Để đi trên con đường nắng chiều nay, tôi lại nhớ con đường bằng lăng cũ” [Qua ngã sáu, tr.47].
Miền ngoại ô (có 13 bài) là vùng ven quanh phố, trong đó có Phường Đúc, là nơi chôn nhau cắt rốn của Nguyên Du, chỉ cách cái “trung tâm” anh nói trên kia chừng vài cây số. Đó còn là Long Thọ, Nguyệt Biều, Lương Quán, Cầu Lòn, Vọng Cảnh, Thiên An, Chín Hầm, Đập Đá, Chợ Dinh... Huế bây giờ mở rộng hơn nhiều. Trước năm 1975, bên kia cầu Lòn đã là địa phận của Hương Thủy, ngược đường Lê Lợi về bên kia Đập Đá đã là địa phận của Phú Vang. Viết về các địa danh, anh luôn lần ngược lại ngọn ngành để giải thích tên gọi, rồi dốc ngược thời gian để đánh thức miền ký ức xa xôi và sâu thẳm trong tâm tưởng, dẫu rằng khi tỏ ra bất lực, anh cũng phải tự an ủi mình rằng: “Ký ức một vùng đất cũng như của mỗi một con người thôi, quên bớt những cái làm nên phiền muộn mà chắt chiu trân quý những tình cảm, kỷ niệm ngày xa, vun vén cho những gì đang có để mãi mãi thương yêu” [Bên dòng kênh cũ, tr.163]. Ai đó đã nói rằng, người nào nghĩ nhiều đến quá khứ, người đó không có tương lai. Nguyên Du là người có tâm hồn nghiêng về phía quá khứ xa xôi với thái độ chấp nhận cuộc chơi giữa đời. Người viết không chỉ đọc nhiều, đi nhiều, gặp gỡ, tiếp xúc và ghi chép nhiều, chi chít những dấu chân trên đường và chữ nghĩa trên trang giấy, mà có khi còn ngồi một chỗ, ngồi rất lâu tưởng chừng như đã gần mấy mươi năm trong một quán cafe bên kia Đập Đá, đưa cái nhìn xa tận cuối chân trời: “Ngồi ở đây có thể nhìn đường chân trời của Huế, nơi dòng sông Hương trải rộng đến thượng ngàn, có Trường Sơn xanh ngắt dưới những tầng mây bạc, khi chiều về là nơi ánh mặt trời lặng xuống nhuộm cố đô vàng trước khi ngã sang màu tím biếc của hoàng hôn/ Cạnh bên là Cồn Hến, dòng nước luôn cuộn chảy, không lắng lại lớp bùn non làm cho hến nơi đây không mang nặng mùi bùn. Đường Hàn Mặc Tử nay đã thành con đường cơm hến, với mười mấy quán cơm, bún, trộn hến, chè Cồn. Huế cũng nghèo như sông, không lắm phù sa để nuôi người nên bao người đã bỏ cố xứ mà đi đến với những phương trời thoáng đạt, màu mỡ phù sa, cơ hội kim tiền, cũng có thể là một tình duyên không đi đến bến bờ. Để rồi sáng nay họ trở về quê hương mang theo vợ, chồng, con cái đậm thổ ngữ phương xa, đến Đập Đá dùng điểm tâm đọi bún bò giò heo, tô hến quê nhà, xuýt xoa với cái cay của người Huế gốc ớt” [Đập Đá mùa lũ, tr.140]. Có lẽ, chỉ có ở Nguyên Du, tôi mới nghe nói đến người Huế có quê gốc từ ớt, gợi nhớ câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm “Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡi”! Ở phần Về quê (10 bài) là quê ngoại của Nguyên Du. Hóa ra, cả quê cha và quê mẹ của anh đều được xếp đầu bảng, ở vị trí nhất, nhì. Từ bước chân cậu bé út thuở nào theo mẹ đi về Bao Vinh, thành Hóa Châu, đến Sịa rồi về An Lỗ, ghé qua suối nước nóng Thanh Tân, Tam Giang, Rú Chá, đầm Chuồn... cũng là một cuộc dạo quanh miền quê trong ký ức, và cũng nhờ thế mà trưởng thành. Nếu hôm nào không được mẹ cho theo thì nôn nao chờ mẹ ở bến sông: “Tôi vẫn còn nhớ như mới đây thôi, chiều chiều xuống bến sông Hương, chờ mẹ theo xe Sịa về, gánh bộ triêng gióng ngược lên bến đò Kim Long qua Phường Đúc bên này. Đứa con út là tôi cứ thui thủi ngồi bên bến nước trông vời... Mới đó thôi mà đã 55 năm, đường về Sịa nay đã khác, cậu bé xưa nay tóc đã bạc, chỉ có hình ảnh, tình cảm, nỗi nhớ về mẹ là không khác bao giờ!” [Nhất Huế nhì Sịa, tr.184-185].
2. Nếu ở Nhất Huế nhì Sịa Nguyên Du đưa ta dạo quanh các tên đất tên làng thì đến Tiếng dạ tiếng thương, anh tập trung khắc họa chân dung con người, từ những phẩm chất cao đẹp trong chiều sâu tâm hồn và tình cảm, cảm xúc, mà anh gọi là Tình Huế (12 bài), đến Giọng Huế (10 bài), rồi đến Vị Huế (12 bài) tức là các món ăn xứ Huế, những gì người ta thường gọi văn hóa ẩm thực, và cuối cùng Chuyện Huế (11 bài) là những câu chuyện lưu truyền trong dân gian còn mãi với thời gian.
Khi phác thảo chân dung tâm hồn con người, Nguyên Du dành phần lớn cho những người phụ nữ. Đó là người bà, người mẹ, người chị, người hàng xóm và những người bạn gái đồng trang lứa thuở học trò, nay đã sống ở nơi xa hay làm nữ tu ở một chùa sư nữ... Những con người sống mãi, như những lớp phù sa trong ký ức bãi bồi đầy ân tình, cưu mang đằm thắm của tác giả, được phác thảo bằng những nét chấm phá như Mệ Quảng, Áo dài của mẹ, Em gái quê hương, Áo trắng thiên thần, Một thoáng cỏ may, Hương quế, Dốc nghiêng... Vẻ đẹp thanh cao của người phụ nữ Huế không chỉ ở vóc dáng ngoại hình, mà chủ yếu là ở hành vi ứng xử và chiều sâu tâm hồn, tình cảm; nó nằm lặng vào bên trong một cách kín đáo, dường như người nào cũng được khóa kín tâm hồn, mà chìa khóa giấu kỹ dưới đáy sông Hương. Trong tâm thức của Nguyên Du, đó là thế giới của Miền gái đẹp luôn thôi thúc, gọi mời bất chấp mọi đổi thay: “Đã qua mùa ngô đồng nở ngát trời Đại Nội, qua mùa nhãn chín trên đường, không còn nước dâng để cá vàng bơi trên cầu Trung Đạo, mùa này heo may làm cỏ tranh nở đầy hoa trắng, có ai về miền gái đẹp với tôi không!” [tr.18]. Là người từng tốt nghiệp ngữ văn, nhưng Nguyên Du không phải là người học chuyên ngữ. Tuy nhiên, là người làm báo, sống bằng nghề chữ nghĩa, anh phải tự trang bị cho mình vốn chữ nghĩa và kỹ năng sử dụng, nhất là phương ngữ của xứ Huế; phải biết nghĩa của chữ Hán, chữ Nôm để giải thích các địa danh, đi sâu vào ngữ âm của Giọng Huế. Tác giả không chỉ dừng lại ở những Câu chuyện về Mạ, Mạ đầu con thứ có ý nghĩa giáo dục trong gia đình, đến Tiếng dạ tiếng thương, Lời nói thân thương, Tiếng Huế trong phim, Bolero chợ Nọ, Con yêu bánh nậm... mang tính đặc trưng về ngữ âm của xứ Huế, mà còn giải thích con đường đến với nghề làm báo phát thanh mà anh theo đuổi suốt đời bắt đầu từ Giọng Huế của tôi, như một bước ngoặt trong tiểu sử đời mình: “Tôi ra trường là lên chức bố rồi nên không vào Thuận Hải, Đắc Lắc, hai tỉnh có nhu cầu nhận sinh viên Đại học Tổng hợp Huế. Ở nhà với vợ chăm con nhỏ gần một năm thì nghe Đài Phát thanh Bình Trị Thiên có nhu cầu tuyển một giọng đọc nam, tôi thử và được nhận vào làm. Dù vậy, tôi chỉ đọc một năm rồi đi làm phóng viên, biên tập viên. Những bài viết phát thanh và sau này là truyền hình tôi tự thể hiện trong phòng đọc hoặc ngoài hiện trường được ít nhiều sự chú ý của người nghe, người xem...” [tr.116-117].
Về văn hóa ẩm thực của xứ Huế vô cùng phong phú, đã thu hút không biết bao nhiêu công trình nghiên cứu lớn, nhỏ của các tác giả trong và ngoài nước. Ở đây, Nguyên Du chỉ quan tâm đến Vị Huế, ngoài những giới thiệu chung về các Món ngon từ con ruốc, Món kiêng thuở ấy, Món quà xưa Huế, Bánh canh muôn nẻo, Chiếc xe phở dạo, Quán xá xôn xao, anh tập trung giới thiệu và đặc tả với tên gọi và địa chỉ cụ thể những món làm nên truyền thống văn hóa ẩm thực thanh tao lâu đời của xứ Huế: Bánh ướt Kim Long, Bánh khoái Thượng Tứ, Nhớ bún bà Bê, Quán vịt Thuận, Chè mụ Lệ... Khổ nhất là lúc bụng đang đói cồn cào, tác giả lại bắt người đọc phải “hình dung” khi quanh đầu lưỡi dâm dấp dịch vị: “Thử hình dung những buổi chiều đầu đông, có chút mưa bay và giá lạnh, trong cái ồn ã, nồng nàn của quán, tiếng xèo xèo từ bếp lửa, rồi dĩa bánh khoái dòn rụm dọn lên đang còn bốc khói, chén nước lèo vàng nâu, dĩa rau sống xanh, điểm vả trắng, chén nhỏ tỏi thơm và ớt đỏ, thấm tháp làm sao (...), khách Tây nào đến Huế đều có trong thực đơn một lần thưởng thức bánh khoái. Họ cũng dùng đặc sản bèo, nậm, lọc, nhưng có người không ăn được, riêng bánh khoái hầu như tất cả đều khen, hơn cả bún bò Huế” [Bánh khoái Thượng Tứ, tr.142-143]. Những Chuyện Huế, đặt ở phần cuối sách, trong đó ngoài những chuyện có truyện, đáng chú ý như Chuyện ngủ đò, Chuyện ở phủ Thủ hiến, Đưa con vô nội, còn lại đều được đưa vào nhằm làm cân đối bố cục cuốn sách, chứ không có gì nổi bật (thậm chí trong đó có những truyện quá tản mạn, không thể hiện rõ ý tưởng của tác giả như Chuyện đồn đêm phố, Con ma ơi, Nam lửa đổ khô cây,...).
3. Tập tản văn thứ ba Nguyên Du viết về cây trái, hoa lá xứ Huế, có tựa là Bí bầu lớn xuống, lấy từ ý tưởng hai câu thơ trong bài Mẹ và quả của Nguyễn Khoa Điềm: “Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên/ Còn những bí và bầu thì lớn xuống”, nó vừa hợp với trạng thái tâm hồn luôn rợp bóng yêu thương đối với cha mẹ, anh chị em trong gia đình của tác giả, lại vừa thể hiện sự nồng ấm từ ký ức đậm đặc phù sa trong miền quê thơ ấu, khi mới sinh ra, anh đã được cha mẹ đặt cho tên gọi thân thương ở nhà là Bù (người Huế dùng để gọi cây hoặc quả bầu). Sách cũng có ba phần: Ký ức vườn Huế (cây trái, 23 bài), Sắc hương của phố (hoa lá, 15 bài) và ký ức tuổi thơ Một thời đi học (15 bài).
Đã từng có bài bút ký tài hoa đậm chất triết lý sống của con người xứ Huế là Hoa trái quanh tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường danh tiếng một thời. Là người đến sau, cùng đi vào miền quê hoa trái ấy, nhưng để tránh cái bóng mây che, Nguyên Du khiêm tốn lần theo con đường nhỏ của thể tản văn, nhón dần từng quả nhỏ, từ những trái ngọt đầu môi như chuối, ổi, mít, đào, khế, nhãn, vải, dừa, chôm chôm, đến trái cây đặc sản của Huế như thị, thanh trà, lê ki ma, giáng châu (măng cụt), trứng cá hoặc trái thực phẩm như bí, bầu, vả, khế... Không quá cầu kỳ trong lối hành văn, không xuất phát từ những luận cứ, luận điểm để phân tích, chứng minh nhằm nâng lên thành quan điểm về các lĩnh vực ở tầm cao của tư tưởng, Nguyên Du chỉ điềm đạm, hồn nhiên một cách giản đơn và bình dị, vừa kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả và trần thuật, vừa dẫn dắt vấn đề một cách tự nhiên như cách nghĩ, cách diễn đạt trong đời sống thường ngày. Người đọc nhận ra, bên cạnh mình đang có một người tri ngộ, đang nhỏ to trò chuyện, những chuyện mà ít nhiều trong ký ức tuổi thơ của mình đã từng trải qua, không bao giờ lặp lại, nếu không tìm đến những trang văn, trong đó có những nỗ lực khơi gợi năng lượng thẩm mỹ của Nguyên Du. Văn hóa vườn là văn hóa đặc trưng của người Việt từ lâu đời, nhưng các loại cây trái trong vườn lại tùy thuộc vào điều kiện thổ nhưỡng từng nơi. Đối với một trong những loại trái thực phẩm đặc trưng của xứ Huế, tuy không lý luận cao xa, nhưng cũng có lúc, có nơi anh mạnh dạn khẳng định, xuất phát từ thực tế cuộc sống: “Chuối, thơm được trồng nhiều trong các khu vườn ở khắp mọi nơi nhưng cây vả chỉ riêng vườn Huế/ Tôi lớn lên đã thấy bóng vả trùm một góc vườn, là một trong những vị trí được chọn để chơi, ăn, học và ngủ của tuổi thơ nhiều buổi trưa hè. Trái vả mọc lúc lỉu quanh thân, dưới gốc, ngoài cành. Trái vả có chín cây nhưng ngọt chát, chỉ dùng trái vả sống xanh để chế biến trong bữa ăn hàng ngày” [Cây vả góc vườn, tr.22-23]. Dường như đối với người Huế, vườn không chỉ là khu đất trồng cây trái quanh nhà, mà còn là văn hóa sinh thái, kết nối tâm thức và cảm quan của con người với môi trường sinh thái, không chỉ sống hòa lẫn với thiên nhiên cây cỏ, mà còn thổi hồn mình vào vùng sinh quyển của thiên nhiên, và đến chiều ngược lại, chính thiên nhiên đã tạo nên hồn cốt, tâm tính lấp lánh mỹ cảm của con người theo quy luật vật ngã tương giao: “Ở Huế có một tình bạn thân thương giữa người và cây cối vườn nhà, nhất là những loại cây lưu niên đã đồng hành cùng người qua bao năm tháng, trong đó có măng cụt mà nhiều khi đời mình chỉ trồng cây, đời con cháu mới hái quả! Cây măng cụt Huế mỗi năm ngọn chỉ ra hai lá non và từ một cây con đến khi có quả phải gần hai mươi năm với điều kiện hợp thổ nhưỡng, được chăm bón kỹ càng” [Trái giáng châu, tr.69].
Sắc hương của phố tác giả viết về các loài hoa của xứ Huế: mai vàng, mai trắng, hoa đào, hoa sứ, hoa sữa, phượng đỏ, phượng vàng, bằng lăng, ngô đồng, bông gòn, long não... những loài hoa phổ biến ở nước ta, nơi nào cũng có, nhưng tác giả không chỉ dừng lại ở việc miêu tả chung chung, mà còn đi sâu phân tích những nét đặc trưng của từng loại và phẩm chất riêng của những loài hoa xứ Huế; về nguồn gốc, màu sắc, sự thanh cao và sinh tồn đặt trong mối quan hệ với đời sống tinh thần của con người, mang sắc độ thẩm mỹ có ý nghĩa nhân sinh: “Mai là loài hoa gần gũi với người dân xứ Huế bởi hầu như tất cả các gia đình ở Huế đều trồng mai trước sân nhà và ngày Tết năm nào cũng có một cành mai chưng ở phòng khách đón xuân. Khác với mai vàng miền Nam nhiều cánh, mai vàng Nam Trung bộ lá hồng, hoàng mai xứ Huế là loài hoa nở sắc năm cánh vàng tươi, hương thơm thoảng nhẹ. Với người xứ Huế, mai vàng còn là miền ký ức bởi từ tuổi thơ cho đến lúc trưởng thành, ai không một đôi lần cùng ba mình sau tiết đông chí bắc chiếc ghế cao cao, tỉa từng ngọn lá cho mai nở đúng lúc xuân về” [Mùa xuân thay áo, tr.132-133]. Ở phần thứ ba Một thời đi học, Nguyên Du kể lại những chuyện còn in đậm trong ký ức của một thuở học trò: Ngôi trường tiểu học, Bút chì bút mực, Hát múa học đường, Bỗng dưng nghỉ học, Đi chơi để học, Trò chơi thơ ấu, Một thời áo tơi; thậm chí, tác giả nhớ cả Tiếng gà thân thuộc, Nhớ mái tranh xưa, Nhớ cà rem... có quá nhiều chuyện để nhớ, để kể, để tả, để gợi cho người đọc sống lại những chuyện thuở ấu thơ trong đời mỗi người, ít nhiều ai cũng đã từng trải qua. Có những chuyện không có truyện, dung lượng lép kẹp, không xứng để viết thành một cái tin vắn trên báo, như Chuyện tình đan áo, người viết bắt đầu từ mấy câu thơ tình trong Bài thơ đan áo của nữ sĩ thời danh nhưng đầy bí ẩn T.T.Kh, rồi dẫn ra rằng mình được chị tặng áo len màu lam bị bạn chọc là màu chết chóc, bèn lấy áo của anh trai mặc hơi rộng lại bị bạn trêu là mặc nính, chỉ thế thôi, nhưng cuối cùng cũng úp mở: “Tôi cũng có người thương dệt que đan sau song cửa, dệt thời gian cho chiếc áo ấm một thời, cho tình cảm lứa đôi. Mùa đông ấy đã xa thì hôm nay tôi soạn lại những chiếc áo len đã cũ, áo len từ ký ức để đón rét nàng Bân muộn về giữa đất trời và len lỏi cả hồn người!” [tr.198]. Có thể hình dung, căn nhà ký ức của Nguyên Du không rộng rinh, không nguy nga đồ sộ, nhưng nhiều ngăn ô chồng chồng lớp lớp, cứ lôi ngăn này ra phải lôi tiếp ngăn kia, khó mà ngừng nghỉ khi những con chữ còn reo vui vẫy gọi. Vậy mà, cũng có lúc anh làm cho người đọc tiếc nuối khi không giữ được những trang nhật ký viết từ “năm lớp 9, thường là viết về đêm dưới ánh đèn dầu sau khi đã học bài, làm bài cho buổi học ngày mai. Tiếc là trong cơn lũ lịch sử năm 1999 tôi bị cảm nặng, tránh lội nước nhiều nên để quên 5 cuốn nhật ký cùng nhiều sách vở ngâm trong nước lũ. Những trang nhật ký viết bằng bút máy với nhiều hình bóng cũ đã nhòa, có nhiều trang không còn đọc được nữa như những kỷ niệm xưa đã mờ đi theo năm tháng đi qua” [Bút chì bút mực, tr.189].
Tản văn là thể văn xuôi trữ tình, ở đó tác giả có thể xâu chuỗi nhiều sự kiện, nhiều chi tiết tản mạn được kết nối với nhau, thông qua sức liên tưởng mạnh mẽ; hay nói như ngôn ngữ của các nhà hậu hiện đại là sự kết nối có tính chất liên văn bản, để tạo nên những truyện không đầu không cuối. Vì vậy, tản văn của Nguyên Du cũng thấp thoáng xuất hiện bóng dáng các nhân vật, như người mẹ tảo tần, người cha nghiêm khắc, người yêu rồi người vợ dịu hiền, các anh chị em ruột, hàng xóm láng giềng, bạn bè thời còn trung học, những người công tác cùng cơ quan, những bóng hồng làm lay động tâm hồn, hoặc các văn nhân nghệ sỹ tài danh mà tác giả từng gặp và có kỷ niệm gắn bó, những nhân vật lịch sử có liên quan đến đất và người xứ thần kinh... Nhiều lắm, đông lắm, họ đứng chật trong tâm hồn đầy hoài niệm của tác giả, nhưng họ chỉ là hình tượng số đông thoáng hiện về vừa đủ gây “nhiễu sóng” cho ký ức mà thôi, còn hình tượng trung tâm vẫn là hình tượng tác giả, cái tôi trữ tình đủ sức chứa đựng và bộc lộ cảm xúc, tình cảm như hơi thở ấm áp, nhẹ nhàng nhưng có độ sâu và tỏa rộng trang văn. Cái đáng đọc của văn chương Nguyên Du chính là ở chỗ ấy. Tất nhiên, không phải bài nào cũng hay với một người mới in sách lần đầu. Còn đôi chỗ, đôi nơi vấn đề quá giản đơn, vụn vặt, kết cấu còn lỏng lẻo, chỉ mới dừng lại ở văn chương tân văn/ báo chí, chưa đi đến tận cùng một cách rốt ráo của vấn đề (Bên đường đi bộ, Nửa thế kỷ vẫn là cầu mới, Những đồi vọng cảnh, Trên miền sông nước, Nâng niu kỷ vật...), nhưng đọc Nguyên Du, giúp ta hiểu thêm nhiều điều mới mẻ và bổ ích về nước non xứ Huế.
Gần đây, không cần các tiêu chí chuẩn mực của một ngành khoa học, người ta vẫn hay tôn vinh, trong đó ít nhiều cũng có sự tâng bốc lẫn nhau, là nhà này, nhà kia (nhà Hà Nội học, nhà Quảng học, nhà Huế học...). Tất nhiên, đó là nhằm khẳng định những người có kiến thức uyên bác về một vùng đất, khi họ giải mã được những vấn đề có tầm vóc lớn lao. Với tôi, đã là người Huế hoặc những người yêu Huế, hãy đến với Huế từ những điểm sáng nhỏ nhoi, từ tấm bia đá, chiếc cầu, dòng sông, con đường... thông qua lối diễn ngôn thật thà, chân chất của Nguyên Du, trước khi đến với những tri thức đồ sộ, sừng sững như Thạch Sùng của các “nhà” giàu có kia. Lần giở từng trang văn - từng khuôn hình quay chậm về đời sống xã hội một vùng đất của Nguyên Du, không chỉ làm ta thức nhận một khối lượng những tri thức về bề dày lịch sử, truyền thống văn hóa Huế, được trình bày một cách mạch lạc, tự tin và đầy những cứ liệu chắc chắn của một nhà báo, mà còn dậy lên, lay động một cách dịu êm và mãnh liệt, những nguồn mạch cảm xúc, tình cảm trữ tình đầy lãng mạn và nhân văn của một dòng sông tuôn chảy giữa đôi bờ sinh thái của văn hiến kinh kỳ; khi thì mơn man thì thầm, khi thì réo gọi khát khao, đòi hỏi phải xuôi về biển cả. Cái cách diễn ngôn của Nguyên Du, không chỉ dừng ở ngôn ngữ sự kiện mà còn đậm đặc ngôn từ hình tượng. Cái tôi của tác giả không chỉ dừng ở cái tôi công dân, đầy tinh thần trách nhiệm mà đã chuyển thành cái tôi thẩm mỹ, mang lý tưởng nhân văn. Anh không dừng lại ở cảm quan về sự thật của một nhà báo, mà đã bước hẳn sang lãnh địa cảm xúc thẩm mỹ của một nhà văn. Tôi không dám và cũng không nên so sánh văn chương anh với văn chương của những nhà văn, trong đó có người lâu nay mỗi lần ra sách đều in gần kín trang bìa 4 với các danh hiệu hội viên hội này, hội nọ, ban kia... còn ở đây, chỉ cần với một bộ ba cuốn sách viết về Huế lần này, Nguyên Du hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu nhà văn theo đúng nghĩa của từ này.
Với riêng tôi, càng đọc Nguyên Du, tôi càng khẳng định cái nguyên lý lâu nay tôi từng theo đuổi trong công việc đào tạo nguồn nhân lực cho báo chí của mình là hoàn toàn chính xác. Đó là, người làm báo, muốn trở thành nhà báo đích thực, trước hết phải là người yêu mến văn chương, phải biết đọc văn và cao hơn, có thể phải biết viết văn.
P.P.P
(TCSH390/08-2021)
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.