Hồn tôi đã hoá con đò ấy

15:31 05/12/2008
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.

Mỗi nhà thơ, tự thân đứng trên một nền đất – cội nguồn của sức sáng tạo. Nền sáng tạo của Raun Gamzatốp là Đaghextan, xứ sở trên vùng núi Kapkazơ. Nền sáng tạo của Ngô Minh là thế giới cát, với một bên biển cả mênh mông, một bên cánh đồng phì nhiêu” nhất Đồng Nai nhì hai huyện”. Miền đất hẹp mà ngõ hầu không giới hạn. Đi tìm phẩm cách nhà thơ, tôi nghĩ phải tìm tới nơi phát tích dòng sông thơ ấy. Đây không đơn thuần là tiểu sử, hoàn cảnh, đây là nguồn dinh dưỡng của cảm xúc.

Phải chăng vì lẽ đó, Ngô Minh dành trọn cho cái nôi thơ bằng những bài thơ đầy ắp kỷ niệm hạnh phúc xen lẫn đau buồn. 26 bài thơ trong Lệ Thuỷ mút mùa (*) là 26 nén hương thơm đốt lên giữa trời đất, bái vọng quê nhà tấm lòng hiếu thảo đứa con nơi xa:
                        nơi ấy mạ bọc tôi trong vạt áo đẫm mồ hôi
                        và dính đầy bụi cát
                        đôi dép mạ đi là manh ván hẹp
                        từ sạp thuyền đi biển của cha
                        bước đi lên nửa bước lùi về
                        đã bao đỉnh cát cao mạ vượt
                        những hột nắng lăn vào mắt xót
                                                                      (Đứa con của cát)
Ngô Minh không dâng lên quê hương những lời ca dạt dào quen thuộc. Tên làng, tên đất Cổ Liễu, An Xá, Bến Chền, Thượng Luật, Kiến Giang, Mũi Viết, Chợ Tréo, Thương Phong, An Mã, Xuân Lai... trở thành cốt tuỷ trong từng câu thơ hàm chứa ý tưởng nghệ thuật.
Tố Hữu viết: Sống trong cái chết vùi trong cát. Một câu thơ đặc tả. Có nhập hồn với cát, đắm mình trong cát, hiểu tận cùng cái tính khí vật chất lạ lùng ấy, nhà thơ mới dám bước qua thủ pháp đặc tả:
                        Chiếu chăn
                        Trời đất
                        Trắng nhoà
                                                (Đêm trắng làng Thượng Luật)
Ở xứ cát, người sống kề bên người khuất. Đêm tối trời, nhìn ra bao nhiêu nấm mồ như chiếu chăn phát sáng. Cảnh tượng hoang sơ không gây rùng rợn, trái lại ta cảm thấy như sợi dây bền chặt âm thầm nối hiện tại với quá khứ tổ tiên. Những người chết vẫn còn đâu đó, linh hồn họ đang tồn tại giữa không gian lao lung kia. Ngay cái dáng đi của người dân xứ cát cũng nghiêng ngả lao về phía trước với bao lo toan vất vả, chờ đợi kiếm tìm như người hành tinh khác đến.  Nhà thơ ba lần nhắc đến câu thơ: anh tôi là vết chém của sóng với ba khung cảnh khác nhau: trên bờ cát trắng mịn da trinh nữ – trên bờ cát trắng mịn màu thiên đường – trên bờ cát trắng mịn màu hạnh phúc. Vết sóng hằn trên cát đối lập với vết chém trên da thịt. Một sự đối lập tàn khốc, một nỗi đau dồn nén thân phận người từ muôn xưa lằn sẹo tới mai này (Sẹo biển).

Biển trong thơ Ngô Minh chẳng đằm thắm như thơ nhiều người đã viết. Biển là biển của những cơn bão: gió giật tung những mảnh vải buồm/ bay lên trời thành đám mây cánh vạc/ sóng giật đi manh ván cuối cùng... Sức biển ắp đầy tưởng chẳng đầy hơn nữa, dữ dằn vô song. Nhưng biển vẫn mang trái tim bao la của người mẹ:
                                    biển sững sờ khóc xác mồ côi
                                    như mèo mẹ ân tình sóng liếm
                                    những vết thương se lần muối mặn
                                                   (Truyền thuyết làng chân sóng)
Thơ đến từ cảm quan quyết liệt và bi thương. Thơ hiện lên bằng các tông màu nơi miền quê dâu bể.
Người ta hay bàn đến đề tài trong thơ. Tôi xem nhẹ vấn đề này, bởi đề tài chẳng quyết định gì khi thơ không gây thiện cảm người đọc. Bạn đừng đặt câu hỏi viết gì, hãy nên đặt câu hỏi viết như thế nào? Một câu hỏi đơn giản, vậy mà chẳng dễ dàng đáp. Với Ngô Minh hạnh phúc và nỗi đau trong một cuộc người như hai nhịp thuỷ triều lên xuống, đến nỗi nhà thơ phải thốt lên hạt máu vỡ đầu môi gặp biển. Chỉ một “Đêm Kiến Giang thức với người thương binh hỏng mắt” làm nhà thơ bàng hoàng: Hai giọt nước mắt anh/ như chắt ra từ đá/ rơi về Kiến Giang thẳm thẳm đêm nhìn. Người thức cùng người là chuyện tao ngộ, chia sẻ, còn đây:
                                    đêm đêm lúa thức bên người
                                    lưng chưa dính chiếu mặt trời đã lên
Hai câu thơ dân dã gói trọn vùng quê mút mùa mưa nắng và lao lực.
Bài: Gió nồm đề tặng tôi, có đoạn:
                                    chạy trốn hay tìm về
                                    vẫn sông bến cũ
                                    ngọn lá rách bươm trên nóc nhà thờ
                                    ta hay gió
                                    mặn một mình
                                    thổi một mình
                                    dọc xa lạ chiều vàng quá độ
Mỗi lần đọc, hiện ra trong tôi cái buổi chiều vàng quá độ ấy và ta nữa đang chạy trốn hay tìm về? Cái biểu cảm được đan cài trong cách biểu cảm, câu thơ hàm ngôn và đa nghĩa. Giữa bể trầm luân vô hạn, con người luôn cõng trên lưng niềm hy vọng. Nhưng hy vọng để rồi lại thất vọng, lại cô đơn như ngọn gió nồm mặn một mình, thổi một mình, đấy là phép biện chứng về lẽ sống. Nếu chỉ hy vọng không thôi chưa đủ, không giúp con người đứng dậy, tự vượt lên trên đôi chân chính mình đang đi.

Lệ Thuỷ mút mùa
không nghiêng về hồi tưởng miền thơ ấu, thời nhà thơ mặc áo lính đau đáu nỗi quê. Lệ Thuỷ mút mùa hoà trong dòng chảy thơ Ngô Minh, phong phú về chất liệu đời sống. Nhà thơ coi trọng ngôn ngữ phổ quát, ngôn ngữ điền dã, sử dụng cả phương ngữ, nhưng lại được biểu hiện bằng tầng văn hoá của người từng trải, giàu kinh nghiệm, điều ấy thấy rõ qua lao động nghệ thuật từng bài, nhất là các bài thơ dài như Truyền thuyết làng chân sóng, Đứa con của cát... Tác giả của nó không thiên về xu hướng phức thể đa tạp, không coi đó là sân chơi của mình, nhưng anh chẳng chịu dừng chân trên lối đi của thủ pháp miêu tả trực tiếp, cách biểu hiện truyền thống. Sự thay đổi trong thơ Ngô Minh là sự thay đổi có chủ đích qua lăng kính chiêm cảm với kiểu cách riêng. Gần đấy là xa, thật đấy mà khác.

Xét cho cùng dù sử dụng phương tiện ngôn ngữ nào thơ cần phải khoả mình trong thế giới ảo giác để cái thực và cái mơ hồ đan xen, tạo ra những khoảng trống, những hình tượng thơ khác biệt. Thơ như con thuyền chuyển tải tư tưởng, nó chỉ cập bờ khi đến được đích chân - thiện - mỹ.
Nhà thơ phát biểu:
                                    Hồn tôi đã hoá con đò ấy
                                   
                    (Ghi ở Bến Chền)
                                                            Thành phố Đồng Hới 2005
H.V.T

(nguồn: TCSH số 208 - 06 - 2006)

 



--------------------------
(*) Tập thơ “Lệ Thuỷ mút mùa”, NXB Thuận Hoá, 2005

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.