HUY CẬN - XUÂN DIỆU
(Trích)
Ảnh: tư liệu
VALÉRY VÀ GIDE Ở HUẾ.
Những năm 1935 - 1936 ở Huế có một "phong trào", một thời thượng thì đúng hơn, xem thơ Valéry và đọc các sách, truyện của Gide, Valéry lúc đó được coi là nhà thơ siêu việt của văn học hiện đại Pháp; còn Gide lúc đó được xem là nhà văn độc đáo, đang có chiều hướng tiến bộ, xích gần lại với phong trào cộng sản, nhất là sau khi Gide cho xuất bản quyển "Những thức ăn trần gian mới" (Les Nouvelles Nourritures), là tờ báo có xu hướng cộng sản. Việc đọc sách của hai tác giả này trở thành thời thượng đến nỗi một anh bạn học lớp tôi, anh Phan D. viết thư cho Gide, tâm sự với Gide về những nỗi băn khoăn của mình trước cuộc sống, và được Gide trả lời bằng một bức thư ngắn gọn trong đó Gide tỏ sự đồng cảm với một tâm hồn băn khoăn ở cái xứ Đông Dương xa xôi. Lại có một bác sĩ người Pháp ở bệnh viện Huế là bác sĩ Tr. lại cho xuất bản liền hai quyển sách nghiên cứu về Valéry và Gide. Bác sĩ Tr. đã diễn thuyết về nhà thơ và nhà văn này, được giới trí thức Huế rất hoan nghênh, mặc dù có khi thính giả cũng không hiểu hết là bác sĩ phân tích những gì trong thơ Valéry và trong văn Gide. Trước mỗi buổi diễn thuyết, nhà bác sĩ nghiên cứu giới thiệu cho mọi người xem hai bức ảnh lớn mà Valéry và Gide đã gởi tặng bác sĩ, với những lời đề tặng rất trân trọng, khích lệ. Bác sĩ Tr. lúc đó trạc ngoài tứ tuần, khỏe mạnh, đẹp theo kiểu một người trí thức quen suy nghĩ, nhưng không phải là kiểu nhà bác học đãng trí. Nghĩa là bác sĩ rất nặng lòng đời. Bác sĩ là "bác sĩ riêng" của Nam Phương hoàng hậu, và mỗi tuần bác sĩ vào hoàng thành để thăm sức khỏe của bà Hoàng. Người ta kể nhiều chuyện về những buổi thăm sức khỏe Hoàng hậu của bác sĩ, vì nó kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Dầu sao thì bác sĩ Tr. cũng gây được cảm tình với giới trí thức, học sinh ở Huế, và cũng có góp phần làm cho thành phố Huế có vẻ là một thành phố "trí tuệ" không thua gì Hà Nội hay Sài Gòn. Nói về thời thượng, tôi nhớ anh Hoài Thanh lúc đó cũng dịch một bài văn dài của Gide nói về văn học nghệ thuật đăng dày cả hai trang báo Tràng An. Tất nhiên anh dịch đăng mấy trang này của Gide vì lẽ nó rất phù hợp với quan điểm nghệ thuật của anh trong cuộc bút chiến sôi nổi "nghệ thuật vị nghệ thuật, hay nghệ thuật vị nhân sinh". Lời văn dịch của anh khá hay, chắc rằng anh đã gởi cái rung động của anh vào mạch văn vốn đã xúc động của Gide.
LÀM QUEN VỚI HOÀI THANH.
Như trên kia đã nói, sau khi xem bài của Hoài Thanh viết về Thế Lữ, tôi có cảm tình với tác giả bài phê bình, vì tôi đoán hiểu ở anh một tâm hồn tế nhị, rung cảm, và có phần nào đồng điệu với những nhà thơ mới lúc bấy giờ. Tôi liền viết một bài nói về Thế Lữ, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, bài bình luận văn học theo lối ấn tượng, và tôi gởi cho anh Hoài Thanh. Thế rồi tờ báo Tràng An tuần liền đó đăng bài của tôi với một lời giới thiệu ngắn khích lệ. Tôi lại gởi tiếp một bài bình luận quyển "Tiếng suối reo" của Khái Hưng. Bài ấy cũng được đăng liền. Tiếp đó tôi không gởi những bài bình luận nữa mà gởi vài bài thơ mà tứ thơ là những ước vọng, những hoài bão của một thanh niên trước cuộc đời. Hai bài thơ này cũng được đăng trong hai số báo. Tất cả các bài bình luận và thơ tôi đều ký tên Hán Quỳ, tức là lấy chữ Huy Cận sắp xếp lại. Cho đến đó tôi vẫn chưa gặp anh Hoài Thanh. Mùa hè 1936, tôi lại viết mấy bài bình luận văn chương gửi đăng báo "Sông Hương" do Phan Khôi làm chủ nhiệm, và do Hoài Thanh làm biên tập. Lúc bấy giờ anh Sanh và anh Tám bảo tôi nên đến thăm tòa báo và hỏi tiền nhuận bút. Tôi và Xuân Sanh một buổi chiều đến thăm tòa soạn Sông Hương, ở phố nào tôi quên mất (hình như ở phố Gia Hội). Anh Hoài Thanh tiếp và nói chuyện với chúng tôi rất niềm nở, rất hợp gu chúng tôi trong những suy nghĩ về triển vọng phát triển của văn học nước nhà. Nhưng khi chúng tôi với những lời chào đón quanh co nêu vấn đề nhuận bút thì anh cho biết là rất tiếc, báo rất nghèo, phải có sự ủng hộ mạnh mẽ của người đọc và cả người viết thì báo mới tiếp tục ra đời. Tóm lại báo đăng những bài của tôi như là những bài lai cảo. Tôi và Xuân Sanh trở về tay không, nhưng câu chuyện văn chương ở tòa soạn cũng làm chúng tôi nức lòng. Đó là mối duyên văn tự đầu tiên giữa tôi và anh Hoài Thanh, về sau này, trong kháng chiến chống Pháp, cũng như trong những năm chống Mỹ cứu nước, có nhiều điểm tôi bất đồng với anh Hoài Thanh về cách nhận định văn học nghệ thuật, về nhận định phong trào thơ văn của ta, về chức năng, nhiệm vụ của văn nghệ, của người văn nghệ sĩ, nhưng không phải vì vậy mà tôi quên cái êm ái, cái thân tình của buổi đầu gặp gỡ. Với lại bên cạnh những quan điểm, những cách suy nghĩ của anh mà tôi không đồng tình, anh cũng có những suy nghĩ mà tôi tán thưởng sâu sắc, như khi anh nói về tấm lòng của Nguyễn Du đối với vận mệnh của con người, hoặc khi anh nói "Có một nền văn hóa Việt Nam". Khi tôi đang thực tập kỹ sư ở đồn điền canh nông trên tỉnh Tuyên Quang (1941) thì tôi nhận được cuốn Thi Nhân Việt Nam (trong đó bài anh viết về tôi rất đằm thắm, thiết tha, sâu sắc biểu hiện một sự đồng cảm từ đáy lòng). Nhận được sách tôi đã thắp một nén hương để đọc, vì có cái câu của Nguyễn Du anh để ở đầu trang sách làm tiêu đề "Của tin gọi một chút này làm ghi". Tôi đồng cảm sâu sắc với anh trong lòng tin đó, tin ở tiền đồ của tiếng Việt, tin ở tiền đồ của nền văn học, của nền văn hóa của nước nhà. Tên khai sinh của anh là Nguyễn Đức Nguyên, nhưng anh lại đặt tên văn học của mình là Hoài Thanh, chắc là với cái nghĩa nhớ tiếng, nhớ tiếng mẹ đẻ là nỗi niềm chung của chúng tôi lúc đó. Ngày anh Hoài Thanh mất, các bạn văn nghệ sĩ đã giao tôi đọc điếu văn, tôi đã đọc lời vĩnh biệt anh với tấm lòng tri ngộ.
MỘT NĂM LÀM GIA SƯ.
Như một đoạn trên đã kể, cuối năm học đệ nhất niên tú tài (tháng 4 -1937) tôi bị cắt học bổng vì đi đón Gôđa (Justin Godart). Vì thế lên năm thứ hai, tôi không còn được ở nội trú trong trường Quốc học, mà phải đi làm gia sư để có thể tiếp tục học. Tôi đến ở nhà bác sĩ D.B, nhà này là một biệt thự giữa một khu vườn rộng, có trồng mấy cây dừa, có nhiều cây cao bóng mát. Đặc biệt có một cái giếng rất sâu nước rất trong, những đêm hè, tôi tha hồ tắm và giặt quần áo, và ngắm bóng trăng ở đáy giếng... Tôi được bố trí ở một cái phòng con sát liền với gara, vì bác sĩ D.B. có một ô tô riêng để đi khám bệnh. Cái nhà lớn nơi ông bà chủ và gia đình ở, thì thỉnh thoảng tôi mới lên để lấy sách vở quý hoặc vài thứ vật dùng tôi cất trong cái rương mà tôi gởi ở phòng ăn. Học trò của tôi là một cậu con trai học dốt, một cô con gái chăm học nhưng cũng không sáng dạ lắm, một cậu con út khôi ngô và khá thông minh. Tôi phải dạy ba học trò của tôi bằng ba thời khắc biểu khác nhau, còn ngày chủ nhật thì tôi để cả buổi sáng để dạy toán và Pháp văn cho cả ba đứa. Vợ chồng bác sĩ cũng biết là hai con mình dốt, nên thường động viên tôi cố gắng dạy thêm giờ. Nhưng có điều không ngờ là cuối năm kết quả học tập của ba học sinh đều tốt, ngoài cả dự kiến của gia sư. Hai đứa con đầu của bác sĩ thì học trường trung học Tây ở Hà Nội, một cậu thông minh, còn cậu cả thì cũng thường thường bậc trung. Đến Tết về nhà, hai cậu công tử ăn diện lắm, nhưng nói thật gặp tôi cũng nể, không dám lên mặt, một phần vì biết tôi học giỏi, phần nữa là tôi bắt đầu nổi tiếng trong đám trí thức, học sinh Huế với những bài thơ của tôi đăng khá đều trên báo Ngày Nay. Nhưng mà tôi cũng hơi thèm những đôi dày da của hai cậu công tử này, có đôi là đóng mới, cũng có đôi mua giày cũ chữa lại, nhưng đối với tôi vẫn là sang và quý. Lúc đó đi học tôi chỉ đi một đôi giày làm bằng săm bánh xe hơi dán lại, màu đỏ gạch, mùa đông thì ấm chân, nhưng mùa hè thì bí hơi, cứ phải rửa chân luôn. Các cô học sinh trường Đồng Khánh gặp tôi thì mỉm cười, có lẽ vì có cảm tình với nhà thơ trẻ, nhưng cũng có lẽ vì thấy đôi giày ngộ nghĩnh, độc đáo của tôi. Tôi không muốn lập dị, nhưng cực chẳng đã tôi phải đi đôi giày cao su đỏ cho đến hết năm thứ hai tú tài. Vừa rồi có anh bạn trước cùng học ở Quốc học gặp tôi lại nhắc "chàng thi sĩ đi đôi giày đỏ" trên đường Khải Định... Bên cạnh phòng tôi ở có một cây ổi, có mấy cành là là. Có thể mắc võng nằm, có thể đánh đu... Với cái thói quen có từ thuở nhỏ, tôi hay ra ngồi trên cây ổi đọc sách, làm thơ và nhất là những đêm trăng sáng, tôi nằm trên cây ổi nhìn mấy ngọn lửa sáng loáng của nhà tôi ở và cả của vườn bên cạnh. Bên đó có mấy cô nữ sinh trường Đồng Khánh thỉnh thoảng lại cất cao tiếng hát, hát mấy bài hát trong các phim Pháp hồi đó. Chẳng biết có tình ý gì không, mà thường khi tôi ra nằm ở cây ổi đọc sách hoặc làm thơ thì lại được nghe tiếng hát vườn bên kia cất lên sau những lá dừa... Bà chủ nhà có một cô em gái khá đẹp, mà nhất là rất có duyên, thỉnh thoảng đến thăm các cháu tức là học sinh của tôi và cũng nói chuyện với thầy, nói chuyện thơ văn, cũng tỏ ý có cảm tình với những bài thơ đã đăng báo của tôi. Tôi có cảm giác rằng cái cầu đã được bắc, nếu tôi đi tới một bước thì có thể đã thành duyên, thành nợ... Nhưng không hiểu tại sao bước ấy tôi không đi, và mối cảm tình cứ lửng lơ, không chín thành tình cảm được. Về sau này tôi biết người con gái ấy đã có một cuộc đời tình duyên rất đau khổ, gần như tủi nhục đến nỗi có lúc cô ta muốn tự tử. Được tin, tôi bàng hoàng và tự nhiên cảm thấy tôi có một phần trách nhiệm trong sự đau khổ của người đẹp xấu số...
Những kỷ niệm sâu sắc nơi vườn dừa cây ổi của tôi lại là bà chị của bà chủ nhà lúc đó đã gần 50 tuổi mà vẻ người còn duyên dáng, mượt mà. Cái giọng nói Huế vốn đã êm ả, trữ tình, mà riêng cái giọng của bà chị này lại càng êm thắm, càng nội tâm. Bà ta nói chuyện với tôi hoặc với bất cứ ai khác mà cứ tưởng như tự nói với mình. Mắt bà rất đẹp, nhiều lúc như ngấn vào trong, đôi lông mày cứ nhíu nhíu lại, chắc hồi trẻ cái nhíu lông mày này đã làm chết điếng nhiều chàng trai. Dần dần tôi mới hiểu bà thất tình, và đến cây ổi của tôi bà ngồi lên cành, hai tay nắm hai cành con đu đưa như đưa võng, rồi khe khẽ hát những bài ca Huế, nhất là điệu Nam bình buồn sâu lắng... Tôi đã gặp một số người điên, nhưng chưa bao giờ thấy một người điên lại biết điều như bà, thật ra bà ngẩn đi vì tình hơn là điên, bà sống bằng kỷ niệm mà không sống bằng hiện tại, bà thuộc loại người mà thiên hạ gọi là si dại. Thỉnh thoảng bà tự nói một mình, nói mạch lạc, lời trau chuốt, làm cho tôi nghĩ rằng những màn độc thoại trong sân khấu cổ điển của các nước là hiện thực, là rút từ trong đời chứ không phải là một ước lệ của các thầy tuồng. Sống với những người bình thường, có trí não lành mạnh tôi được hiểu nhiều về cuộc đời, nhưng tiếp xúc với người điên, người si, dường như tôi được hiểu bổ sung về cuộc đời, về sự sống, vì đây là một thứ toán ảo giác, làm bằng những ảo số. Một năm làm gia sư cho tôi hiểu được nhiều về tính cách của con người, của ông bác sĩ quá thực tế, cứ muốn dạy cho con sống theo các nhân vật của Marcel Pagnol, những nhân vật rất "thực dụng chủ nghĩa", cốt vụ lợi vật chất, xem đời sống tinh thần, văn hóa là một thứ xa xỉ, thậm chí là không tưởng... Được biết tính tình bà chủ nhà thương con, lo sắm đủ thứ cho con, nhưng không dám tiêu pha gì cho mình, và chắt bóp từng xu đối với bà con thân thích. Hai vợ chồng rất tương đắc trong cách quản lý gia đình, trong cách đối xử với họ hàng nhưng dường như đời sống nội tâm của họ có một khoảng trống, đó là điều tôi đoán hiểu, nhưng cũng được xác định qua câu chuyện của bà chị thất tình và của cô em gái... Còn tâm lý của ba đứa học sinh của tôi thì chưa có gì đáng nói, mà tôi cũng không thèm để ý. À, mà cũng đáng nhắc điều này: Cái cậu con trai học dốt cứ cười tôi là thầy quá mơ mộng, quá ảo tưởng... "Cuộc đời nó không đẹp như thầy tưởng đâu". Cuộc đời nó như vở kịch của Pagnol ấy!" Ông bố đã đúc cậu con theo cái khuôn của ông không sai một ly. Có điều nói thế thì nói, chứ trò vẫn trọng và nể thầy. Xã hội vẫn còn cho phép có những người mơ mộng, có những người không tưởng, cậu học trò quá thực dụng của tôi cũng dần dần hiểu ra điều đó.
Sau này trong thời gian kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tôi có hỏi thăm tin tức ông D.B. thì được biết hai cậu con học trò trường tây Hà Nội đã làm công chức cho chế độ Mỹ Ngụy, nhưng cũng không phạm tội ác gì. Còn cậu học trò dốt thì nghe đâu đi buôn cốt kiếm tiền, không tham gia hoạt động chính trị, đúng với tính cách của anh hồi nhỏ.
KỶ NIỆM VỀ NHÀ THƠ PHẠM HẦU.
Phạm Hầu là con vị thượng thư Phạm Liệu của triều đình Huế. Phạm Hầu cũng học ở trường Quốc Học, sau tôi 2 lớp. Lúc học đệ tứ niên thành chung, Phạm Hầu đã làm thơ, và đã có đăng một số bài ở tạp chí Tao Đàn hồi đó. Phạm Hầu thường hay trao đổi, bàn chuyện thơ với tôi ở trong trường, sau giờ học buổi chiều, trước giờ ăn cơm. Anh người mảnh dẻ, giọng nói rất nhẹ, gần như nói thầm, nhưng thỉnh thoảng cũng cười to lên, khi gặp một ý thích thú tâm đắc. Mắt Phạm Hầu như nhìn xa đi đâu, không phải là khóe mắt mơ mộng thường gặp ở các thiếu nữ mới lớn lên, mà là nét nhìn xa vắng, xa trong tưởng tượng của anh, và vắng với cảnh vật trước mắt. Tôi rất mến anh, quí anh. Hồi tôi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Nông lâm, anh cũng ra học trường cao đẳng Mỹ thuật. Anh ở phố Bôvet (nay là phố Yết Kiêu), số nhà 52, trên gác. Tôi thường đến thăm và đàm đạo thơ ca với anh. Chúng tôi rủ nhau đi thăm cảnh chùa Hương, đi lễ đền Hùng. Và khi tôi thực tập kỹ sư canh nông ở đồn điền Tuyên Quang (1941), thì anh lên chơi với tôi 1 tuần và dịp ấy anh làm được hai bài thơ mà hiện nay tôi còn giữ bản chép tay nguyên bản của anh. Phạm Hầu thường tâm sự với tôi: "Cận đã có tập Lửa Thiêng và đang có đà làm thơ, đáng mừng cho Cậu. Còn mình thì chưa biết sao đây! Phải có sự nghiệp gì trước 30 tuổi, nếu không thì chả sống làm gì!". Rồi anh say sưa vẽ, thỉnh thoảng làm thơ, trong vẽ trong thơ anh cốt tìm lý tưởng. Dạo ấy anh có vẽ một bức tranh tặng tôi, tranh theo lối lập thể. Trung tâm bức tranh là một cái quạt mở rộng (lấy ý "lòng anh mở với quạt này" trong bài Ngậm ngùi của tôi), và xung quanh chiếc quạt là chim, bướm, cây cỏ, mây cuốn, ráng chiều, có cả thấp thoáng, ẩn hiện những hình thiếu nữ lẫn với hoa lá, như từ hoa lá mà nở ra. Bức tranh này tôi giữ đến kháng chiến chống Pháp thì bị mất ở Kim Bản (Hà Đông). Rồi dần dần tôi thấy anh hao gầy đi, mắt đôi khi như lạc đi, có nét ngơ ngác. Rồi đầu năm 1942 hồi vào Sài Gòn học nốt học kỳ chót của trường Kỹ sư canh nông, thì được tin anh đã bị điên, và người ta đã đem anh vào nhà thương Vôi ở Bắc Giang (nhà thương điều trị những người điên). Mặc dù người anh ruột hết lòng chăm sóc anh, bệnh tâm thần của anh không khỏi, và anh đã mất tại nhà thương năm 1942, vào tháng nào tôi không nhớ rõ, và gia đình đã đem thi hài anh về chôn ở Huế, gần chùa Từ Đàm. Người yêu của anh là một nghệ sĩ đánh đàn tranh rất hay, nhưng tiếng đàn yêu thương ấy cũng không đủ sức bồi lại sức sống cho anh, không đủ sức lập lại sự cân bằng trí não cho anh. Phạm Hầu đã điên, nhưng không phải cái điên thường, mà là điên vì đi tìm lý tưởng mà tìm không ra, rồi tắt nghẹn trong tâm tư, loạn cuồng trí tuệ. Phạm Hầu si tình thì được người yêu yêu lại thắm thiết. Nhưng Phạm Hầu si lý tưởng thì khó cho anh! Anh đã bị cái chất điên nó ngấm vào anh năm này qua năm khác, còn hơn là bệnh ung thư gậm nhắm tế bào.
Nhớ thương Phạm Hầu tôi đã tạo anh thành người "thanh niên điên vì lý tưởng" trong bài thơ sân khấu "Người thợ ảnh" (trong tập Bài thơ cuộc đời).
Phạm Hầu chết đã 44 năm, mà tôi nhớ anh rõ mồn một: cái dáng đi của anh rất nhẹ, lời anh thỏ thẻ, mắt anh xa vắng... Tôi ghi mấy dòng kỷ niệm nhớ anh, thương anh, tiếc hồn thơ tế nhị của anh chưa đủ tháng năm để nở hết hương sắc. Phạm Hầu đi qua đời như một cái bóng, cái bóng trong quá, nhẹ quá không đậu bám được ở cuộc đời, như "du khách một phút dừng chân Vọng hải đài". Nhưng mấy vần thơ ít ỏi mà anh để lại vẫn còn in dấu trong thơ ca:
Chẳng biết trong lòng ghé những ai
Thềm son từng đội gót vân hài
Hỡi ôi! người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng hải đài
…
Lòng xiêu xiêu, hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa nhài
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xe lòng có những ai?
(Vọng hải đài)
H.C - X.D
(TCSH51/09&10-1992)
BỬU Ý
Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.
LÊ QUANG KẾT
Ký
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).
VŨ THU TRANG
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.
HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ
BÙI KIM CHI
Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.
KIM THOA
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
(Hàn Mạc Tử)
NGUYỄN VĂN UÔNG
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.
LÊ QUANG KẾT
Tùy bút
Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.
TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.
LÊ QUANG KẾT
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.
HUY PHƯƠNG
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
PHAN THUẬN AN
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.
MAI KIM NGỌC
Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.
HOÀNG HUẾ
…Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…
QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
THU TRANG
Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.