Hoàng Phủ Ngọc Tường - Người hái phù du

16:02 18/08/2008
THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

Nhưng đọc thơ Tường, tôi nghĩ anh là người hái phù du. Phù du không nở không tàn, lúc có không, hiện hữu đó mà vô thường đó, mới là loài hoa mà "loài" thi sĩ hái được trong thế giới hiện đại này. Nghĩ như thế thì dễ sống hơn, dù ai cũng biết đã dám tự nhận mình là nhà thơ là đã dám nhận lãnh một sứ mạng, dẫu sứ mạng ấy cũng là phù du:
            "Ta tìm lại trong hình hài hoá bướm
            Chút tự do quả thực trên đời
            Rũ sạch hết đam mê hoang tưởng
            Núi thông nhiều, ta hãy rong chơi "bài ngâm 'đùa chơi"
Chỉ vì một "chút tự do" không phải cho riêng mình, không chỉ cho riêng mình, HPNT - nhà thơ và nhà giáo ấy đã bỏ viên phấn trắng lại giảng đường với lời tạ từ đơn giản: "Đừng hỏi nữa em ơi! Thầy lên đường đánh Mỹ". Tôi nghĩ, kể từ giờ phút ấy, HPNT chính thức là nhà thơ, biết dấn thân và cũng biết chấp nhận. Mùa xuân 1971, trong một đêm giữa rừng Trường Sơn, tôi đã nghe Đài Tiếng nói VN đọc bài thơ tôi đi trên những con đường rừng cũ của HPNT. Phải nghe bài thơ này giữa rừng Trường Sơn mới cảm hết được sức ám ảnh của nó. Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ hai câu thơ trong bài ấy:
            "Hai mươi năm dài trên trán mẹ
            Những con đường rừng vẽ nét ưu tư"
Vầng trán mẹ và vầng trán Trường Sơn, những nếp nhăn ưu tư và những con đường mòn vô định dưới những tầng lá, những hình ảnh mờ chồng ấy vừa lặng lẽ vừa lay động, vừa thực vừa hư đã làm nên một cốt cách của thơ HPNT cả về sau này. Nếu được chọn một bài thơ tiêu biểu của HPNT trong những năm đánh Mỹ, tôi sẽ chọn bài thơ tôi đi trên những con đường rừng cũ, không chỉ vì tôi đã có kỷ niệm giữa Trường Sơn với bài thơ ấy, mà vì cái ánh nhìn rất đăm chiêu, cái giọng hơi nghèn nghẹn ấy mới đích là ánh nhìn và giọng thơ của HPNT.
            "Ôi những con đường chỉ một lần qua
            Hai mươi năm biết ai còn nhớ
            Nhưng từ đó cây hoang rừng già
            Thương mãi đàn con gian khổ..."
Quả thật, người viết những dòng thơ ấy đã suốt đời không thể đi thoát khỏi "những con đường rừng cũ", đã suốt đời "nhớ rừng" ngay cả khi phải nằm im, ngồi im một chỗ như trong những tháng năm gần đây. Liên tục di hành trong tâm tưởng, HPNT đã đau đáu đi về những miền rừng chiến khu cũ, đi trở lại những ngày tháng cũ, bạn bè cũ, những khoảng đời và những cái chết cũ. Để tìm cái gì? Tìm một "Địa chỉ buồn".
            "Nhà tôi ở phố Đạm Tiên"
Có lẽ đây là bài thơ buồn nhất và cũng hay nhất của HPNT, một "địa chỉ buồn" đúng nghĩa, dành cho những ai có linh cảm về cái vô thường của cuộc đời truy cập:
            "Những chiều Bến Ngự giăng mưa
            Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
            Tôi ra mở cửa đón người
            Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang"
Những câu thơ có thể khiến ta sởn gai ốc vì trong một thoáng, hư vô đã hiện hình trong tiếng gió, trong tiếng kẹt cửa, trong một động tác ra mở cửa gần như vô thức của một người quá cô đơn muốn làm bạn với tất cả, kể cả với hư vô. Hoàng Phủ Ngọc Tường không có một tạng thơ mãnh liệt, nồng cháy, một tạng thơ nhiều dương tính. Nhưng thơ anh lãng đãng với mập mờ hơi gió, phất phơ cánh phù dung, một giọng thơ nhiều linh cảm về cõi chưa biết:
            "Đêm qua trời đất mông lung
            Có con chim nhạn bềnh bồng trong sương (đêm qua)
Đó là giọng thơ giàu âm tính, nếu quá đi sẽ bị lả lướt, yểu, nhưng khi đúng độ sẽ tạo được cảm giác thông thiên, một khát khao ve vuốt cái vô cùng, một khả năng nhận dạng trong bóng tối cái chưa biết.
            "Có buổi chiều nào như chiều nay
            Căn phòng anh bóng tối dâng đầy
            Anh lặng thầm như là cái bóng
            Hoa tàn một mình mà em không hay" (dạ khúc)
Đó là những khi người làm thơ biết sống trong bóng tối, hít thở bóng tối, biết nghe trong bóng tối những tiếng mơ hồ:
            "Vẽ tôi nghe tiếng mơ hồ
            Bàn tay em vỗ bên bờ hư không" (vẽ tôi)
Khả năng tự chìm lắng ấy trong thơ, khả năng của người biết sử dụng nỗi cô đơn của mình cho thơ đã giúp HPNT có được những câu thơ đầy cảm giác, những câu thơ thật buồn nhưng cũng thật trong trẻo. Và hơn thế, anh còn giữ được cho mình phần ngây thơ sau rất nhiều từng trải, rất nhiều sách vở, rất nhiều kinh viện. Đó là điều may mắn cho HPNT, bởi những kiến văn rất cần cho những bút ký, những tản văn của anh có thể trở thành vô ích trong thơ. Thơ chỉ cần những cảm giác rất thật và đột xuất như thế này:
            "Có nhiều khi tôi quá buồn
            Tôi ước mong chung quanh chỗ tôi ngồi
            Mọc lên thật nhiều cây cỏ" (cỏ chim sẻ và châu chấu)
Ước muốn chuyện trò với cây cỏ, với những thế giới khác là ước muốn thật của nhiều nhà thơ, còn có khả năng chuyện trò hay không lại là chuyện khác. Tôi nghĩ ở một phía nào, HPNT đã có được khả năng đó. Bây giờ, khi bệnh tật buộc anh phải ngồi một chỗ, thì chính bệnh tật lại cho anh một cơ hội để có thể lắng xuống tận cùng, lắng xuống cho từng câu thơ có thể hiện lên thật yên tĩnh, thật trong trẻo, và chỉ hiện lên vì chính nó. Bài thơ "Kăngguru" anh viết cuối năm 2001 có những câu thơ đã hiện lên theo cách đó:
            "Mày là con Kăngguru tự do
            Của những mặt đất rạng rỡ
            Và những chân trời đang mở
            Lang thang như con ngựa hồng
            Túi đựng đầy trống không"
Khi cái "túi đời", cái túi tri thức, cái túi tham sân si đã "trống không", ấy là khi thơ có thể ghé vào, dẫu có thơ rồi, túi ấy vẫn trống không.
Quảng Ngãi 12-3-2002
T.T

(nguồn: TCSH số 158 - 04 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.

  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

  • MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

  • HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

  • TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.

  • HOÀNG TẤT THẮNG                1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.