Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương và thể hồi ký trong đời sống văn học đương đại.

17:08 11/08/2008
LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .

Sức hấp dẫn đầu tiên của tác phẩm chính là câu chuyện dài về cuộc đời của “vị tướng huyền thoại” Nguyễn Sơn. Từ nhỏ, qua những câu chuyện về gia đình, quê hương, và đặc biệt là từ một bức ảnh mà cha tôi lưu giữ được - bức ảnh tướng Nguyễn Sơn hình như là với chiếc tẩu thuốc lá trên môi - tôi đã có những hình dung riêng của mình về vị tướng “rất có phong cách này”. Mặc dầu chưa cảm nhận hết thần sắc của bức chân dung nhưng tôi nhớ là mình đã rất thích nét cương nghị, thông minh, phong trần, tài tử khác thường của người trong bức ảnh. Đến hôm nay, cầm cuốn sách của bà Trần Kiếm Qua trên tay, tôi thấy không có gì khác nhau giữa hình dung xưa của mình với những tấm hình ông được in trong sách, mặc dầu không thấy có bức ảnh “Tướng công ngậm tẩu”...
Tướng Nguyễn Sơn, như chúng ta vẫn biết, là một nhà chỉ huy quân sự có tài, một chiến sĩ cách mạng ưu tú. Cuộc đời ngắn ngủi 48 xuân xanh của ông có đủ vinh quang và thăng trầm, ngọt bùi và cay đắng... Con người ông với những nét ngoại hình nổi bật, với cá tính độc đáo và một đời sống tâm hồn, tình cảm phong phú hẳn là nguyên mẫu lý tưởng cho các nhà tiểu thuyết, song hồi ký lại có sức mạnh riêng của nó. Xuất phát từ những diễn biến có thật của đời sống, sức cảm hoá mạnh mẽ của thể hồi ký chính là bản thân đối tượng được miêu tả, là sự sáng tỏ của ký ức, là khả năng lựa chọn các sự kiện, chi tiết điển hình xoay quanh cuộc đời nhân vật chính. Qua những dòng hồi tưởng mạch lạc của bà Trần Kiếm Qua, chân dung cuộc đời tướng Nguyễn Sơn hiện lên với đầy đủ mọi chi tiết để làm nên một số phận lẫm liệt và bi tráng: Mười lăm tuổi đã sang Pháp để tìm chân lý và đã được gặp lãnh tụ Hồ Chí Minh. Mười sáu tuổi đã tham gia hoạt động cách mạng. Ông là một hình ảnh đẹp và cao cả tượng trưng cho tinh thần cộng sản quốc tế, tình hữu nghị Việt - Trung. Với nhân dân Việt Nam, ông là một vị tướng tài ba có công lao rất lớn trong công cuộc kháng chiến chống Pháp và ngay từ 1948 đã được phong quân hàm Thiếu tướng. Với đất nước Trung Hoa, ông có 27 năm chinh chiến trên 48 tuổi đời, ba lần “vượt núi tuyết” và “thảo nguyên” trong Vạn lý trường chinh, ba lần bị khai trừ Đảng nhưng không chùn bước, vẫn đạp bằng sóng gió để vượt qua và tiến lên. Ông là một vị tướng nước ngoài có công khai quốc nên nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và cũng được mang hàm thiếu tướng. Danh hiệu “Lưỡng quốc tướng quân” của ông chính từ đó mà nên.
Rõ ràng là bấy nhiêu chi tiết đã làm nên danh tiếng lẫy lừng của một nhà chỉ huy quân sự, một nhân vật lịch sử. Nhưng sức hấp dẫn của “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” không chỉ dừng lại ở đó. Với tư cách là một nhân vật văn học, bên cạnh những chiến công, tướng Nguyễn Sơn qua lăng kính văn chương chính là con người của nhiều nếm trải số phận. Cuộc đời ông có lúc phải đương đầu với ghềnh thác, phong ba. Con người ông văn võ song toàn, khí phách hiên ngang nhưng chứa nhiều uẩn khúc và đa cảm... Giữa lớp lớp các sự kiện, biến cố lịch sử của hai dân tộc Việt Nam - Trung Quốc trong những ngày cách mạng bão táp, tiêu điểm ký ức, hình ảnh Nguyễn Sơn - Hồng Thuỷ (tên Trung Quốc của ông) hiện lên đôi khi chỉ với vài ba lời đối thoại ngẫu hứng cũng đã tạo được ấn tượng khó phai về một con người có khẩu khí sắc sảo, ngang tàng nhưng cũng nhiều tâm tình, nhiều nỗi niềm trắc ẩn. Những năm cuối đời ông phải nếm chịu nỗi đau thân phận quá lớn. Ngoài sự đau đớn của thân thể do căn bệnh hiểm nghèo gây nên, ông còn luôn bị dày vò bởi những khổ đau tinh thần hết sức nặng nề. Tự đáy lòng mình, bà Trần Kiếm Qua đã viết: “Hồng Thuỷ (tức Nguyễn Sơn) cương quyết, thông minh, tính tình thẳng thắn. Nhưng thông minh, thẳng thắn thì cuộc đời lại gian truân... Trong đời người ngắn ngủi, anh đã nếm đủ khổ đau, nhưng anh vẫn trung kiên bất khuất, không nản lòng tin. Đằng sau cái bề mặt: tinh thần kiên nhẫn không xao xuyến, tính cách vui vẻ, lạc quan, phải thừa nhận anh đã chịu áp lực nội tâm rất nặng. Nếu không, anh chẳng thể rời cõi nhân gian trong lúc còn trẻ như thế này” (Tr 397). Tuy nhiên, sau tất cả những cảm xúc đau thương mất mát ấy, hình ảnh tướng quân Nguyễn Sơn bao năm chinh chiến trở về Tổ quốc đã như “ chiếc lá vàng rơi về cội”: “Xuống xe, đến bên lề đường, cúi xuống bốc một nắm đất bùn lẫn cỏ xanh. Ông nắm chặt bàn tay đặt ngang ngực. Ông nhắm mắt lại hít một hơi dài” và “sung sướng ngắm nhìn đất đai cố hương xanh tươi bốn mùa”... là hình ảnh đẹp, nổi bật nhất về một con người có trái tim lớn - Một người cộng sản chân chính.
Nội dung thứ hai tạo mối quan tâm đặc biệt cho độc giả chính là mối tình xuyên quốc gia của tướng Nguyễn Sơn với một phụ nữ Trung Hoa, như ta đã biết, là tác giả, nhân vật tôi, người kể chuyện trong tác phẩm này.
Tướng quân Nguyễn Sơn và bà Trần Kiếm Qua tuy khác quốc tịch nhưng cùng chí hướng, cùng lý tưỏng. Trải qua những chặng đường binh lửa với bao gian nan khốc liệt, hai tâm hồn, hai trái tim đồng điệu đã đến với nhau. Trong chiến tranh, đôi uyên ương đã phải sống những tháng ngày “không có tổ ấm”, mãi khi tới Diên An, họ mới thực sự được sống hạnh phúc bên nhau. Nhưng ngày vui cũng thật ngắn ngủi. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, theo yêu cầu của Tổ quốc, tướng Nguyễn Sơn đã trở về Việt Nam để tham gia lãnh đạo kháng chiến. Họ chia tay nhau với niềm tin và lời hẹn ước một ngày tái ngộ. Một nguồn tin thất thiệt đã dẫn tới cuộc chia ly âm thầm, đau khổ, ám ảnh đến trọn đời cho cả hai con người vốn rất vững vàng trong muôn thử thách. Mối tình của họ bắt nguồn từ một tình yêu sâu sắc. Cuộc hôn nhân tan vỡ để lại trong lòng mỗi người một vết thương lớn. Một vị tướng dũng mãnh xông pha vào sinh ra tử như Nguyễn Sơn, đến cuối đời phải tự “kết tội” mình trong dằn vặt đớn đau: “suốt cả đời tôi chưa hề phụ lòng sáu trăm triệu nhân dân Trung Quốc, nhưng lại phụ lòng một phụ nữ Trung Hoa”(Tr 397). Bà Trần Kiếm Qua lại càng đau xót hơn khi phải đối mặt với một tình thế nghiệt ngã, phũ phàng: “... đến ngày vợ chồng gặp lại thì tôi và Hồng Thuỷ lại phải cạn chén. Không phải mật ngọt mà là rượu đắng” (Tr 339). Điều an ủi lớn nhất là bà Trần Kiếm Qua đã sinh hạ được hai người con trai: Tiểu Phong Và Tiểu Việt. Những đoạn miêu tả bức tranh đời sống gia đình, cảnh ba cha con đầm ấm quấn quýt bên nhau trong những giờ phút hiếm hoi gợi rất nhiều xúc động. Sau này, hai người con của tướng Nguyễn Sơn đã hướng về Việt với tất cả những gì thiêng liêng nhất của tình phụ tử. Càng xúc động hơn khi trên con đường tìm về quê cha đất tổ còn có người phụ nữ Trung Hoa, lần đầu tiên bước chân vào cửa nhà chồng đã 84 tuổi..
Là một vị tướng tài nghệ, tuấn tú, nhưng đời sống riêng tư của ông Nguyễn Sơn lại nhiều lần đổ vỡ. Trong cuộc đời không dài của mình, ông đã có đến bốn cuộc hôn nhân. Ngoài mối lương duyên trắc trở với người vợ Trung Quốc - người vợ thứ hai - ông còn ba cuộc hôn nhân khác. Người vợ đầu tiên ở quê do cha mẹ cưới hỏi khi ông 15 tuổi vì bặt tin ông trong thời kỳ hoạt động bí mật nên đã tái giá sau một thời gian dài chờ đợi. Người vợ thứ ba là một người phụ nữ cùng tham gia hoạt động cách mạng tại chiến trường Nam Trung Việt thời kháng Pháp nhưng do không chịu đựng nổi cuộc sống gian nan, nguy hiểm đã rời bỏ ông mà đi. Người vợ thứ tư là bà Lê Hằng Huân, một phụ nữ Hà Nội trẻ đẹp đến với cuộc đời ông khi ông đã vào độ tuổi 40 do tổ chức giới thiệu. Tuy không phải là nhân vật chính nhưng bà Lê Hằng Huân chiếm được rất nhiều cảm tình của độc giả bởi dung nhan và đức hạnh của bà. Chính nhờ tấm lòng ấm áp và nhân hậu đó, những người con của tướng Nguyễn Sơn luôn dành tình thương yêu và khát vọng mong đợi được gặp gỡ những người anh ruột thịt của mình ở bên kia biên giới. Cuối cùng tám người con - những hoa trái từ bốn cuộc hôn nhân của tướng Nguyễn Sơn đã có được ngày vui đoàn tụ. Đó là lối kết thúc có hậu, làm vợi bớt nỗi bùi ngùi thương cảm của độc giả với tư cách là người đồng hành chứng kiến toàn bộ câu chuyện cảm động về cuộc đời một nhân vật nổi tiếng của lịch sử cách mạng Việt thế kỷ 20.
Yếu tố cuối cùng góp phần không nhỏ vào sự thành công của cuốn sách chính là nghệ thuật kể chuyện, một lối kể càng về cuối càng “nồng”. Cũng có thể là cuộc đời nhiều ẩn số của tướng Nguyễn Sơn dần dần được giải đáp và nỗi đau “sinh ly tử biệt” đã đẩy những xung đột nội tâm lên đến cao trào nhưng rõ ràng gần đến hồi kết thúc, nhưng suy nghĩ, cảm xúc, những nỗi niềm sâu kín bên trong đã được bà Trần Kiếm Qua bộc bạch hết sức chân tình.
Có thể gọi “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” là một trong những tác phẩm hồi ký tiêu biểu nằm trong xu hướng “cuối thế kỷ nhìn lại”. Trong văn học đương đại Việt Nam, đây cũng là một hiện tượng đáng chú ý. Vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20 (tập trung chủ yếu vào thập kỷ 90), trên văn đàn xuất hiện một loạt những tác phẩm hồi ký, bút ký tạo nên một mảng sinh động của đời sống văn học mà có thể nói ngay rằng trước đó là chưa hề có. Khác với những năm đầu của thời kỳ đổi mới, thể phóng sự với tính nhạy bén, xông xáo, linh hoạt đã tạo được những bước đột phá đầu tiên vào những điểm nóng, những vùng nhạy cảm nhất của hiện thực đời sống và hoàn toàn thắng thế thì những năm cuối cùng khép lại thế kỷ 20, sự ra đời của các tác phẩm hồi ký nhằm đáp ứng lại nhu cầu nhìn nhận và suy ngẫm về quá khứ. Những vấn đề của văn chương một thuở, những số phận văn học đã thành dĩ vãng giờ được tái dựng theo một tinh thần mới, giả thiết mới đã gây không ít các cuộc tranh cãi mà nhờ đó, đời sống văn học trở nên có khí sắc hơn.
Một thực tế không thể phủ nhận là độc giả ngày nay quan tâm nhiều đến bản thân cuộc đời các nguyên mẫu hiện thực, đến sự chân xác, trung thực, khách quan của các chi tiết, sự kiện lịch sử. Đây chính là ưu thế lớn của hồi ký nói riêng và các tác phẩm ký nói chung. Ngay trong tiểu thuyết, một thể loại không bắt buộc người viết phải trung thành với nguyên mẫu, bạn đọc ngày nay vẫn tỏ ra có hứng thú khi biết được ít nhiều tính chất tự truyện của tác phẩm và khám phá rằng nhà văn đã tự khai thác mình như một nhân vật chính. Một thực tế hùng hồn nữa là hiện nay, các tác phẩm hồi ký của các nguyên thủ quốc gia, các tướng lĩnh quân sự, các nhà văn lớn... trong đó có những tác phẩm với những khoản nhuân bút khổng lồ đang là loại sách BEST _ SELLER (sách bán chạy nhất). Điều an tâm lớn là những người tìm đọc các tác phẩm đó đêu là những độc giả “thứ thiệt”, độc giả thuộc tầng VIP của văn chương và văn hoá.
Hà nội 22 - 11 - 2001
L.H.T

(nguồn: TCSH số 157 - 03 - 2002)

 

 

.......................................
(*) Nhà xuất bản Văn học - 2001

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).