Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương và thể hồi ký trong đời sống văn học đương đại.

17:08 11/08/2008
LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .

Sức hấp dẫn đầu tiên của tác phẩm chính là câu chuyện dài về cuộc đời của “vị tướng huyền thoại” Nguyễn Sơn. Từ nhỏ, qua những câu chuyện về gia đình, quê hương, và đặc biệt là từ một bức ảnh mà cha tôi lưu giữ được - bức ảnh tướng Nguyễn Sơn hình như là với chiếc tẩu thuốc lá trên môi - tôi đã có những hình dung riêng của mình về vị tướng “rất có phong cách này”. Mặc dầu chưa cảm nhận hết thần sắc của bức chân dung nhưng tôi nhớ là mình đã rất thích nét cương nghị, thông minh, phong trần, tài tử khác thường của người trong bức ảnh. Đến hôm nay, cầm cuốn sách của bà Trần Kiếm Qua trên tay, tôi thấy không có gì khác nhau giữa hình dung xưa của mình với những tấm hình ông được in trong sách, mặc dầu không thấy có bức ảnh “Tướng công ngậm tẩu”...
Tướng Nguyễn Sơn, như chúng ta vẫn biết, là một nhà chỉ huy quân sự có tài, một chiến sĩ cách mạng ưu tú. Cuộc đời ngắn ngủi 48 xuân xanh của ông có đủ vinh quang và thăng trầm, ngọt bùi và cay đắng... Con người ông với những nét ngoại hình nổi bật, với cá tính độc đáo và một đời sống tâm hồn, tình cảm phong phú hẳn là nguyên mẫu lý tưởng cho các nhà tiểu thuyết, song hồi ký lại có sức mạnh riêng của nó. Xuất phát từ những diễn biến có thật của đời sống, sức cảm hoá mạnh mẽ của thể hồi ký chính là bản thân đối tượng được miêu tả, là sự sáng tỏ của ký ức, là khả năng lựa chọn các sự kiện, chi tiết điển hình xoay quanh cuộc đời nhân vật chính. Qua những dòng hồi tưởng mạch lạc của bà Trần Kiếm Qua, chân dung cuộc đời tướng Nguyễn Sơn hiện lên với đầy đủ mọi chi tiết để làm nên một số phận lẫm liệt và bi tráng: Mười lăm tuổi đã sang Pháp để tìm chân lý và đã được gặp lãnh tụ Hồ Chí Minh. Mười sáu tuổi đã tham gia hoạt động cách mạng. Ông là một hình ảnh đẹp và cao cả tượng trưng cho tinh thần cộng sản quốc tế, tình hữu nghị Việt - Trung. Với nhân dân Việt Nam, ông là một vị tướng tài ba có công lao rất lớn trong công cuộc kháng chiến chống Pháp và ngay từ 1948 đã được phong quân hàm Thiếu tướng. Với đất nước Trung Hoa, ông có 27 năm chinh chiến trên 48 tuổi đời, ba lần “vượt núi tuyết” và “thảo nguyên” trong Vạn lý trường chinh, ba lần bị khai trừ Đảng nhưng không chùn bước, vẫn đạp bằng sóng gió để vượt qua và tiến lên. Ông là một vị tướng nước ngoài có công khai quốc nên nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và cũng được mang hàm thiếu tướng. Danh hiệu “Lưỡng quốc tướng quân” của ông chính từ đó mà nên.
Rõ ràng là bấy nhiêu chi tiết đã làm nên danh tiếng lẫy lừng của một nhà chỉ huy quân sự, một nhân vật lịch sử. Nhưng sức hấp dẫn của “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” không chỉ dừng lại ở đó. Với tư cách là một nhân vật văn học, bên cạnh những chiến công, tướng Nguyễn Sơn qua lăng kính văn chương chính là con người của nhiều nếm trải số phận. Cuộc đời ông có lúc phải đương đầu với ghềnh thác, phong ba. Con người ông văn võ song toàn, khí phách hiên ngang nhưng chứa nhiều uẩn khúc và đa cảm... Giữa lớp lớp các sự kiện, biến cố lịch sử của hai dân tộc Việt Nam - Trung Quốc trong những ngày cách mạng bão táp, tiêu điểm ký ức, hình ảnh Nguyễn Sơn - Hồng Thuỷ (tên Trung Quốc của ông) hiện lên đôi khi chỉ với vài ba lời đối thoại ngẫu hứng cũng đã tạo được ấn tượng khó phai về một con người có khẩu khí sắc sảo, ngang tàng nhưng cũng nhiều tâm tình, nhiều nỗi niềm trắc ẩn. Những năm cuối đời ông phải nếm chịu nỗi đau thân phận quá lớn. Ngoài sự đau đớn của thân thể do căn bệnh hiểm nghèo gây nên, ông còn luôn bị dày vò bởi những khổ đau tinh thần hết sức nặng nề. Tự đáy lòng mình, bà Trần Kiếm Qua đã viết: “Hồng Thuỷ (tức Nguyễn Sơn) cương quyết, thông minh, tính tình thẳng thắn. Nhưng thông minh, thẳng thắn thì cuộc đời lại gian truân... Trong đời người ngắn ngủi, anh đã nếm đủ khổ đau, nhưng anh vẫn trung kiên bất khuất, không nản lòng tin. Đằng sau cái bề mặt: tinh thần kiên nhẫn không xao xuyến, tính cách vui vẻ, lạc quan, phải thừa nhận anh đã chịu áp lực nội tâm rất nặng. Nếu không, anh chẳng thể rời cõi nhân gian trong lúc còn trẻ như thế này” (Tr 397). Tuy nhiên, sau tất cả những cảm xúc đau thương mất mát ấy, hình ảnh tướng quân Nguyễn Sơn bao năm chinh chiến trở về Tổ quốc đã như “ chiếc lá vàng rơi về cội”: “Xuống xe, đến bên lề đường, cúi xuống bốc một nắm đất bùn lẫn cỏ xanh. Ông nắm chặt bàn tay đặt ngang ngực. Ông nhắm mắt lại hít một hơi dài” và “sung sướng ngắm nhìn đất đai cố hương xanh tươi bốn mùa”... là hình ảnh đẹp, nổi bật nhất về một con người có trái tim lớn - Một người cộng sản chân chính.
Nội dung thứ hai tạo mối quan tâm đặc biệt cho độc giả chính là mối tình xuyên quốc gia của tướng Nguyễn Sơn với một phụ nữ Trung Hoa, như ta đã biết, là tác giả, nhân vật tôi, người kể chuyện trong tác phẩm này.
Tướng quân Nguyễn Sơn và bà Trần Kiếm Qua tuy khác quốc tịch nhưng cùng chí hướng, cùng lý tưỏng. Trải qua những chặng đường binh lửa với bao gian nan khốc liệt, hai tâm hồn, hai trái tim đồng điệu đã đến với nhau. Trong chiến tranh, đôi uyên ương đã phải sống những tháng ngày “không có tổ ấm”, mãi khi tới Diên An, họ mới thực sự được sống hạnh phúc bên nhau. Nhưng ngày vui cũng thật ngắn ngủi. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, theo yêu cầu của Tổ quốc, tướng Nguyễn Sơn đã trở về Việt Nam để tham gia lãnh đạo kháng chiến. Họ chia tay nhau với niềm tin và lời hẹn ước một ngày tái ngộ. Một nguồn tin thất thiệt đã dẫn tới cuộc chia ly âm thầm, đau khổ, ám ảnh đến trọn đời cho cả hai con người vốn rất vững vàng trong muôn thử thách. Mối tình của họ bắt nguồn từ một tình yêu sâu sắc. Cuộc hôn nhân tan vỡ để lại trong lòng mỗi người một vết thương lớn. Một vị tướng dũng mãnh xông pha vào sinh ra tử như Nguyễn Sơn, đến cuối đời phải tự “kết tội” mình trong dằn vặt đớn đau: “suốt cả đời tôi chưa hề phụ lòng sáu trăm triệu nhân dân Trung Quốc, nhưng lại phụ lòng một phụ nữ Trung Hoa”(Tr 397). Bà Trần Kiếm Qua lại càng đau xót hơn khi phải đối mặt với một tình thế nghiệt ngã, phũ phàng: “... đến ngày vợ chồng gặp lại thì tôi và Hồng Thuỷ lại phải cạn chén. Không phải mật ngọt mà là rượu đắng” (Tr 339). Điều an ủi lớn nhất là bà Trần Kiếm Qua đã sinh hạ được hai người con trai: Tiểu Phong Và Tiểu Việt. Những đoạn miêu tả bức tranh đời sống gia đình, cảnh ba cha con đầm ấm quấn quýt bên nhau trong những giờ phút hiếm hoi gợi rất nhiều xúc động. Sau này, hai người con của tướng Nguyễn Sơn đã hướng về Việt với tất cả những gì thiêng liêng nhất của tình phụ tử. Càng xúc động hơn khi trên con đường tìm về quê cha đất tổ còn có người phụ nữ Trung Hoa, lần đầu tiên bước chân vào cửa nhà chồng đã 84 tuổi..
Là một vị tướng tài nghệ, tuấn tú, nhưng đời sống riêng tư của ông Nguyễn Sơn lại nhiều lần đổ vỡ. Trong cuộc đời không dài của mình, ông đã có đến bốn cuộc hôn nhân. Ngoài mối lương duyên trắc trở với người vợ Trung Quốc - người vợ thứ hai - ông còn ba cuộc hôn nhân khác. Người vợ đầu tiên ở quê do cha mẹ cưới hỏi khi ông 15 tuổi vì bặt tin ông trong thời kỳ hoạt động bí mật nên đã tái giá sau một thời gian dài chờ đợi. Người vợ thứ ba là một người phụ nữ cùng tham gia hoạt động cách mạng tại chiến trường Nam Trung Việt thời kháng Pháp nhưng do không chịu đựng nổi cuộc sống gian nan, nguy hiểm đã rời bỏ ông mà đi. Người vợ thứ tư là bà Lê Hằng Huân, một phụ nữ Hà Nội trẻ đẹp đến với cuộc đời ông khi ông đã vào độ tuổi 40 do tổ chức giới thiệu. Tuy không phải là nhân vật chính nhưng bà Lê Hằng Huân chiếm được rất nhiều cảm tình của độc giả bởi dung nhan và đức hạnh của bà. Chính nhờ tấm lòng ấm áp và nhân hậu đó, những người con của tướng Nguyễn Sơn luôn dành tình thương yêu và khát vọng mong đợi được gặp gỡ những người anh ruột thịt của mình ở bên kia biên giới. Cuối cùng tám người con - những hoa trái từ bốn cuộc hôn nhân của tướng Nguyễn Sơn đã có được ngày vui đoàn tụ. Đó là lối kết thúc có hậu, làm vợi bớt nỗi bùi ngùi thương cảm của độc giả với tư cách là người đồng hành chứng kiến toàn bộ câu chuyện cảm động về cuộc đời một nhân vật nổi tiếng của lịch sử cách mạng Việt thế kỷ 20.
Yếu tố cuối cùng góp phần không nhỏ vào sự thành công của cuốn sách chính là nghệ thuật kể chuyện, một lối kể càng về cuối càng “nồng”. Cũng có thể là cuộc đời nhiều ẩn số của tướng Nguyễn Sơn dần dần được giải đáp và nỗi đau “sinh ly tử biệt” đã đẩy những xung đột nội tâm lên đến cao trào nhưng rõ ràng gần đến hồi kết thúc, nhưng suy nghĩ, cảm xúc, những nỗi niềm sâu kín bên trong đã được bà Trần Kiếm Qua bộc bạch hết sức chân tình.
Có thể gọi “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” là một trong những tác phẩm hồi ký tiêu biểu nằm trong xu hướng “cuối thế kỷ nhìn lại”. Trong văn học đương đại Việt Nam, đây cũng là một hiện tượng đáng chú ý. Vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20 (tập trung chủ yếu vào thập kỷ 90), trên văn đàn xuất hiện một loạt những tác phẩm hồi ký, bút ký tạo nên một mảng sinh động của đời sống văn học mà có thể nói ngay rằng trước đó là chưa hề có. Khác với những năm đầu của thời kỳ đổi mới, thể phóng sự với tính nhạy bén, xông xáo, linh hoạt đã tạo được những bước đột phá đầu tiên vào những điểm nóng, những vùng nhạy cảm nhất của hiện thực đời sống và hoàn toàn thắng thế thì những năm cuối cùng khép lại thế kỷ 20, sự ra đời của các tác phẩm hồi ký nhằm đáp ứng lại nhu cầu nhìn nhận và suy ngẫm về quá khứ. Những vấn đề của văn chương một thuở, những số phận văn học đã thành dĩ vãng giờ được tái dựng theo một tinh thần mới, giả thiết mới đã gây không ít các cuộc tranh cãi mà nhờ đó, đời sống văn học trở nên có khí sắc hơn.
Một thực tế không thể phủ nhận là độc giả ngày nay quan tâm nhiều đến bản thân cuộc đời các nguyên mẫu hiện thực, đến sự chân xác, trung thực, khách quan của các chi tiết, sự kiện lịch sử. Đây chính là ưu thế lớn của hồi ký nói riêng và các tác phẩm ký nói chung. Ngay trong tiểu thuyết, một thể loại không bắt buộc người viết phải trung thành với nguyên mẫu, bạn đọc ngày nay vẫn tỏ ra có hứng thú khi biết được ít nhiều tính chất tự truyện của tác phẩm và khám phá rằng nhà văn đã tự khai thác mình như một nhân vật chính. Một thực tế hùng hồn nữa là hiện nay, các tác phẩm hồi ký của các nguyên thủ quốc gia, các tướng lĩnh quân sự, các nhà văn lớn... trong đó có những tác phẩm với những khoản nhuân bút khổng lồ đang là loại sách BEST _ SELLER (sách bán chạy nhất). Điều an tâm lớn là những người tìm đọc các tác phẩm đó đêu là những độc giả “thứ thiệt”, độc giả thuộc tầng VIP của văn chương và văn hoá.
Hà nội 22 - 11 - 2001
L.H.T

(nguồn: TCSH số 157 - 03 - 2002)

 

 

.......................................
(*) Nhà xuất bản Văn học - 2001

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒ TIỂU NGỌC

    Thế kỷ XXI là thế kỷ của internet và truyền thông, nơi mọi chân lý và định luật đều gói gọn ở trong hai con số 0 và 1 của ngôn ngữ lập trình mạng.

  • VŨ THỊ THƯỜNG

    Gần đây, nhân công việc tìm nhặt tư liệu xung quanh vụ án Lệ Chi viên để viết một cái gì đó bằng văn xuôi, tôi có đọc một số sách viết về Nguyễn Trãi. Trong số sách tôi đã đọc ấy, có hai cuốn: Văn chương Nguyễn Trãi Chủ nghĩa yêu nước trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn của tác giả Bùi Văn Nguyên.

  • VŨ TRỌNG QUANG

    I. HÀNH TRÌNH TẤT YẾU
    Bước chân bắt đầu từ khởi điểm Octavio Paz “Giữa im lặng và tiếng nói, đó là thơ”. Vậy thì im lặng hay lên tiếng, có người nói thơ là tiếng nói, và có người cho vô ngôn là một giá trị.

  • ROLAND BARTHES

    Trong cuộc chiến giữa bạn với thế giới, hãy đặt thế giới ở hàng thứ cấp (Franz Kafka)

  • LÊ QUANG THÁI 

    Việt Nam đã có thơ mới sánh cùng với thơ mới của các nước Nhật Bản, Trung Hoa, Indonesia; khác nhau ở chỗ phong trào thơ mới dậy lên sớm hơn hoặc muộn hơn ba năm mà thôi. Còn các nước Thái Lan, Lào và Campuchia không có chuyện thơ mới bởi lẽ tình hình văn nghệ thiếu điều kiện phát triển.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Cầm tay chưa muộn nối lời
    Nghiêng mình gửi mộng mây trời lang thang

                                   (Bùi Giáng)

  • VĂN GIÁ  

    Tôi bắt đầu nhan đề bài viết bằng một câu hỏi có vẻ như khá liều lĩnh? Nó sẽ lập tức dẫn đến một phản biện ngay sau đó: “Hay” là một cách nói định tính, không tường minh được, anh cho là hay, tôi cho là không hay, thậm chí là dở thì thế nào?

  • BỬU Ý

    (Nhân dịp giới thiệu tập sách của nhiều tác giả “Thơ Tân Hình Thức Việt - Tiếp nhận và sáng tạo” tại tòa soạn tạp chí Sông Hương, Huế, ngày 15.8.2014)

  • PHAN NGỌC THU

    Cùng với văn học cả nước, hiện nay, văn học ở mỗi vùng đất cũng đang đứng trước yêu cầu lớn lao của công cuộc đổi mới.

  • “Chúng sanh chìm bùn dục
    Những kẻ không thấy đời…”
                                        Subha.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊN

    “Cái hèn” này, gần đây, đã được một số người nói đến khi nhìn lại một giai đoạn văn học vừa qua. Nhưng tôi có cảm tưởng tác giả đó chỉ mới đủ dũng cảm để dám nói về “cái hèn” của mình so từ bên ngoài mình đưa tới mà thôi.

  • HOÀNG LONG

    Trên thế giới, thể loại truyện cực ngắn có nhiều tên gọi. Ngoài tên thông dụng nhất là “truyện cực ngắn” hay “truyện rất ngắn” thì còn có các tên truyện chớp, truyện ngắn ngắn…

  • LẠI NGUYÊN ÂN

    Khi bàn tới những vấn đề không đơn giản như quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, thiết tưởng chẳng những cần xét xem về mặt logic lý luận thì nên quan niệm thế nào cho thỏa đáng, mà còn cần xét về mặt lịch sử, quan hệ này đã được biểu hiện ra sao, thực chất của nó là gì, v.v…

  • ANH CHI

    Sau khi đọc tiểu luận Ý nghĩa một đời người của tôi trên tạp chí Nhà văn và Tác phẩm số Tết Giáp Ngọ 2014, nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện đã viết bài Về các tiểu luận cho là của Lê Tràng Kiều trong “Văn chương và hành động” (NV&TP số tháng 3 và 4/2014), ghi là “trao đổi với Anh Chi”. Nhưng, nội dung bài viết đó cho thấy anh chỉ hành xử với nhà văn Lê Tràng Kiều, và cách hành xử vẫn như cũ. Do vậy, tôi thấy cần phải viết bài tiểu luận này để trao đổi lại.

  • LGT: Bản dịch của chúng tôi lấy từ lời giới thiệu của Cheryll Glotfelty trong “Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học” do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm chủ biên.

  • NGUYỄN HỮU LỄ

    ...Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ (1914 - 1987), quê ở xã Văn Dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế trong một gia đình hoàng tộc. Bằng con đường tự học, Tôn Thất Dương Kỵ đã trở thành một nhà nghiên cứu lịch sử, một nhà giáo, đồng thời là một trí thức yêu nước, một chiến sĩ cách mạng…

  • TRẦN ĐÌNH SỬ - LÃ NGUYÊN

    (Nhân bài báo của Ngô Tự Lập Đọc sách “Lột mặt nạ Bakhtin - câu chuyện về một kẻ lừa dối, một chuyện bịp bơm và một cơn mê sảng tập thểcủa Jean - Paul Bronckart và Cristian Bota (Thụy Sĩ, 2011, 630 trang))

  • DƯƠNG PHƯỚC THU (Sưu tầm, giới thiệu) 

    LGT: Đã từng có một cuộc xướng họa thơ trên báo với số lượng người tham gia đông kỷ lục; 1324 lượt tác giả với 1699 bài họa. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu lại Vườn thơ đoàn kết do Báo Cứu Quốc - nay là Báo Đại Đoàn Kết tổ chức xướng họa thơ cách đây đã 43 năm.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920.

  • LÊ DỤC TÚ

    “Chủ nghĩa nhân văn tôn giáo cũng là một nguồn cảm hứng của văn nghệ, đồng cảm với con người nhân đạo trong văn chương”...