LÊ ANH HOÀI
Hàm có mặt trong một đêm thơ của một câu lạc bộ mang tên “Vĩnh Cửu”. Bà cô của Dung làm chủ tịch câu lạc bộ này.
Mịnh họa: Nguyễn Duy Linh
Bà - chủ hãng vàng, trang sức, đá quý; Bà - nhà từ thiện nổi tiếng; Bà - Chủ tịch câu lạc bộ thơ có nhiều hội viên nhất thành phố. Nghe nói, thị trưởng đã nhiều lần tiếp riêng bà và rất hoan nghênh hoạt động sáng tác, hoạt động xã hội “vì thành phố nghệ thuật” của bà. Quả thật, bà được tặng một tấm huy chương ghi đúng nội dung như thế. Thành phố có không biết bao nhiêu người được tặng chính tấm huy chương ấy. Nhưng với bà, nó long trọng khác thường, nó luôn được in trang trọng bên cạnh logo của hãng vàng - cũng mang tên “Vĩnh Cửu”. Và trong những đêm thơ của câu lạc bộ, dĩ nhiên không thể thiếu hình ảnh của nó trên phông nền sân khấu. Trong những buổi gặp gỡ, đọc thơ có mặt bà, không hội viên nào dám đeo tấm huy chương ấy.
Người ta từng kể một giai thoại rằng, có lần một nữ nhà thơ tài năng, nhưng quá nghèo, đến gặp bà. Nữ thi sĩ có một đứa con riêng, không chồng. Đứa nhỏ rất thông minh và nghịch ngợm. Thi sĩ muốn gặp để xin vay một món tiền, hoặc để xin hoãn một khoản vay. Thế nào, thì tóm gọn, đó là một hoạt động mà chủ tịch câu lạc bộ thường thích thú, mong muốn và luôn chụp ảnh đưa lên trang cá nhân và các phương tiện truyền thông khác. Không phải với chú thích về việc vay tiền - bà không bỉ ổi như thế, mà sẽ là chú thích về việc bà đang đàm đạo thơ ca với một nhà thơ khác. Và cả hai đều nổi tiếng.
Điều bất ngờ, mấu chốt của giai thoại này là ở chi tiết: Thằng bé nghịch ngợm đang đeo chính tấm huy chương “Vì thành phố nghệ thuật”! Khi đã dụ dỗ được nó đến gần, bà tóm lấy và ôm nó vào lòng. Thợ ảnh của riêng bà đã xuất hiện rất đúng lúc. Anh ta đang nâng máy ảnh lên, bà chủ tịch câu lạc bộ đã nở nụ cười thi sĩ - nhà từ thiện quen thuộc, mẹ thằng bé đang huy động các cơ mặt để tự làm tươi tỉnh lên và đang cố bảo con trật tự để chụp ảnh, thì bà chủ phát hiện ra tấm huy chương. Bàn tay bà đang thể hiện cú ôm nhà nghề, nó chạm vào một vật cứng. Bà nhìn xuống, ánh mắt bà chạm phải chiếc huy chương quen thuộc. Trong ánh đèn flash lóe lên, chiếc huy chương ngạo nghễ vàng chóe như đang nhe răng trêu chọc. Bà giật nảy mình, mặt tái mét, khóe miệng bà giật giật và bà hẩy thằng bé xuống, với cung cách như phủi một cái rác vô tình dính vào mình.
Giai thoại kể, bà chủ hãng vàng “Vĩnh Cửu” giàu có đã mắng người mẹ khốn khổ, và nhất quyết không cho vay.
Giờ đây, bà đang mỉm cười lịch thiệp, lách qua đám người hâm mộ bà, tiến về phía Hàm và Dung. “Không phải như thế, bà vẫn cho cô nhà thơ ấy vay, anh ạ. Dù sao, bà cũng làm thơ cơ mà”, Dung đoán được suy nghĩ của Hàm, cô ghé tai anh. “Tươi tỉnh lên tí, vì em một chút đi, trông anh như đang đi đưa đám ấy”. Hàm lập tức thay đổi nét mặt, chính anh cũng không biết Dung có sức ảnh hưởng tới bản thân lớn đến mức đó. Gần gũi lâu ngày, giao thoa thân xác, quá trình ấy tạo ra sự hòa hợp tự động. Hàm chợt nhớ, bà cô vẫn đều đặn tài trợ cho các nghiên cứu của Dung.
Sang trọng, nổi bật, hoàn toàn phù hợp với vai trò và bối cảnh, bà chủ đêm thơ đã lướt đến trước mặt Hàm. Liếc nhanh đứa cháu gái như xong một lời chào kiểu người nhà, bà lập tức mở chuyện rất thân thiện với Hàm. “Từ đêm thơ này, chúng tôi sẽ tuyển để đăng một trang thơ của “hội” trên tờ Văn Nghệ thành phố. “Hội” của chúng ta đang khởi sắc, anh thấy đấy” - bà ngọt ngào. “Nếu anh viết cho vài dòng giới thiệu thì tốt quá”. Mọi khi Hàm lập tức thoái thác nhưng lần này anh im lặng, kiểu im lặng dễ được hiểu là đồng thuận. Bà chủ tiếp tục tỏ ra thân gần với anh “Tôi biết thị trưởng rất quý và tin anh. Ông quả thật có con mắt xanh, biết trọng dụng người tài. Và trẻ tuổi. Ôi, tuổi trẻ, năng lượng! Lần đó, khi được thị trưởng tiếp, tôi đã để ý đến anh. Chắc anh không nhớ đâu, nhưng tôi rất nhớ, vì tôi luôn yêu quý những người trẻ tuổi tài năng…”.
Mặt Hàm hơi đanh lại, Dung lo sợ kín đáo liếc anh. Bà cô khoe tiếp đã có giấy phép in một tập thơ nhưng chưa thuê được họa sĩ. “Nghe nói anh rất thân với họa sĩ P, cũng một người trẻ và tài, hôm nào xin mời hai anh đến uống trà, mà không, uống rượu với tôi. Với các nghệ sĩ đích thực của thành phố, tôi sẽ mời rượu…”. Đúng lúc này, thợ ảnh riêng của bà chủ hãng vàng xuất hiện như từ trời rơi xuống, đúng vào góc chụp đẹp nhất.
Giữa lúc ánh đèn chụp lóe lên. Hàm có vẻ mặt cay đắng và hài hước, nhưng đây lại là vẻ mặt thật anh nhất. Nó sẽ cực phù hợp với chú thích của bà chủ, rất kín đáo nhưng đủ để hiểu, anh - một nhà văn nổi tiếng, thân cận với thị trưởng, đang gặp gỡ bà trong một sự kiện nghệ thuật, với tư cách người nhà.
Bà không biết anh đang nghĩ chắc chắn bà đã bịa đặt cuộc gặp với thị trưởng. Bởi chính anh cũng chưa bao giờ gặp mặt thị trưởng, và có lẽ không ai thực sự được gặp mặt ông ta. Tất cả đều thực hiện các lệnh của ông nhân danh, qua các văn bản phát ra từ văn phòng của ông. Những người khoe khoang từng gặp thị trưởng, như bà “Vĩnh Cửu”, không bao giờ có ảnh chụp chung với ông ta cả.
*
Thành phố quá nhiều nhà thơ. Rất nhiều câu lạc bộ thơ mọc lên, mang những cái tên vĩ cuồng, huênh hoang khoác lác. Nhưng “Vĩnh Cửu” là câu lạc bộ thơ lớn nhất thành phố. Nó còn có tham vọng vươn ra toàn quốc, và thực tế, nó đã có khá nhiều hội viên không chỉ ở thành phố. Thậm chí, nó có cả hội viên ở nước ngoài. Ông chủ tịch hội nhà thơ thành phố rất căm ghét những câu lạc bộ này. Ông ta lôi kéo nhiều chủ tịch các hội khác, vận động để thành phố ra một thông báo. Theo đó thành phố ủng hộ tất cả các câu lạc bộ, nhóm thơ, ca, nhạc, họa, múa, xiếc, kịch, phim… nhưng tuyệt đối không được gắn với chữ “hội”. Các tờ báo thực hiện điều này, nhưng chính các câu lạc bộ, trong các hoạt động nội bộ, vẫn tự phát ngôn như thể họ cũng là một “hội”. “Chúng tôi có các hội viên. Hội viên nhé, không ai lại gọi là ‘câu lạc bộ viên’ cả”, một chủ tịch câu lạc bộ thơ phát biểu đầy khiêu khích. Ông tiếp tục, tự vỗ bồm bộp vào ngực “Và tôi, tôi cũng là chủ tịch!” Lý lẽ của ông ta sắc sảo, dựa trên cái gọi là “bằng chứng ngôn ngữ học”.
Trên sân khấu của đêm thơ Vĩnh Cửu vẫn liên hoàn những màn đọc thơ, ngâm thơ, hát thơ. Đa số là những khuôn mặt già nua, những cần cổ rướn lên lấy hơi, càng lộ những dây chằng và yết hầu rệu rã. Số lượng nhà thơ, tăng lên theo cấp số nhân nên quảng trường thành phố cũng không thể chứa hết các hội thơ. Ngày thơ của hội, và cả các ngày hội thơ cấp câu lạc bộ luôn kín đặc những gương mặt hau háu tự mãn. Nhìn từ trên xuống, quang cảnh giống một khoảnh sân rộng đầy những chiếc bát cùng cỡ vừa tráng men đang chuẩn bị xếp hàng vào lò. Chiếc lò thì ọp ẹp cơ chừng sắp vỡ ra vì quá tải.
Với đêm thơ của Vĩnh Cửu, quang cảnh cũng na ná. Ở đây, thi nhân các cấp cũng đọc thơ, ngâm thơ, diễn thơ; nhưng tuyệt đối không được thả thơ. Việc đó là một đặc ân với những người có câu thơ được tuyển chọn. Và nghi lễ này chỉ được thực hiện trong Hội Thơ của thành phố, tại quảng trường lớn. Trong cái ngày đầy bon chen ấy, không phải ai muốn là đều được lên đọc thơ ở quảng trường. Tất cả đều phải qua tuyển chọn gắt gao nhưng dư luận vẫn luôn ì xèo chế giễu. Vì tựu trung, trong giới, có ai thực sự phục ai bao giờ.
Chợt Hàm nhận thấy, sân khấu tắt ngấm đèn nến, lặng ngắt mọi âm thanh. Đám người lộn xộn bên dưới lặng lẽ nhưng quyết liệt dịch chuyển theo cách đàn cá mòi vận động dưới đại dương. Hình như có một con cá to đang xuất hiện, và đám cá mòi, rất nhẹ nhàng, uyển chuyển và nhanh nhẹn, đang lao đến một cái miệng đang ngoác ra.
Ở lâu trong môi trường nghệ thuật thành phố, từng thấy rất nhiều những biến chuyển động trời ghê gớm, Hàm không còn lạ lẫm trước những thay đổi của đám đông. Nhưng trong sự vần vũ của đám thi nhân cá mòi Vĩnh Cửu, Hàm nhận thấy sắp diễn ra điều mà anh chưa từng biết. Bản năng khiến anh theo dòng.
Tất cả các ngọn đèn cùng lúc bật lên khiến Hàm lóa mắt. Và điều anh kinh ngạc không thể tưởng tượng được bỗng hiện ra. Trên sân khấu sừng sững một cái lò được tạo hình giống lư hương trang trí đầu rồng, sơn nhũ vàng chóe toàn bộ. Bà Vĩnh Cửu uy nghi nhưng không kém phần duyên dáng, tay cầm ngọn đuốc rực cháy xuất hiện như một nữ thần. Phần cán đuốc cũng trang trí đầu rồng nhũ vàng. Một giọng trầm âm u cất lên, như từ địa ngục “Nghi lễ hóa thơ dâng Thánh. Bắt đầu!” Bà Vĩnh Cửu châm đuốc vào lò. Lửa bốc lên ngùn ngụt. Tất cả đèn đột ngột tắt lịm. Đám đông rùng mình, cùng cộng hưởng một âm tần số thấp.
Ánh lửa bập bùng mờ tỏ từng khuôn mặt thành kính lần lượt theo hàng. Cúi đầu. Lẩm nhẩm khấn (hay đọc thơ?). Hai bàn tay chắp lại, ở giữa kẹp một tờ giấy chép thơ. Có người mang theo cả tập. Thành kính thả vào lò. Ngọn lửa nháng lên trong giây lát soi rõ một mặt người tê dại, mê cuồng, thống khoái.
*
Không rõ kéo dài bao lâu. Không rõ bao nhiêu người đã thực hiện xong nghi lễ hóa thơ dâng Thánh. Ánh lửa chập chờn hất lên tường những bóng người lừ lừ di chuyển vòng quanh như một chiếc đèn kéo quân khổng lồ.
Hàm thấy ngực như bị một tảng đá vô hình ép chặt. Nhìn sang Dung cầu cứu, anh thấy trong mắt cô ngọn lửa nhảy múa. Mắt cô không chớp. Miệng cô há ra vô thức. Chợt ngọn lửa trong mắt cô mờ dần. Dung chớp mắt. Đèn bỗng bật sáng lòa. Hàm thở ra.
Bà Vĩnh Cửu lại một lần nữa hiện ra trên sân khấu. Lúc này, bà đã kịp thay bộ váy áo khác màu xanh. Chiếc khăn choàng bằng voan mỏng cũng màu xanh khiến bà như thể hiện thân của đấng tạo hóa giống cái.
Nhưng tất cả những con mắt đang tập trung vào bà bỗng bị hướng sang một mục tiêu di động vừa xuất hiện. Người mẹ trẻ, ăn mặc xoàng xĩnh nhưng sạch sẽ, dắt tay đứa bé. Thằng bé không có gì lạ lẫm, sợ sệt. Nó tò mò nhìn quanh, có lúc còn định giật tay ra để chạy đến chỗ cái lò trước mẹ. Người phụ nữ nắm chặt tay con, mắt chị nhìn thẳng bà Vĩnh Cửu, trên môi thoáng nở một nụ cười.
Và hai mẹ con đã tiến thẳng lên sân khấu, đến trước cái lò hóa thơ. Bà chủ tự nhiên thu mình lại trông thảm hại.
Người mẹ cúi xuống nhìn con. Đứa bé nhoẻn cười tinh nghịch. Nó thò tay lên ngực, giật phắt ra một vật gì vàng chóe.
Vật đó giãy giụa trong tay thằng bé như một con cua tuyệt vọng.
Tàn tro leo lét bùng lên lần cuối khi thằng bé vung tay.
Hà Nội 8/4/2019
L.A.H
(TCSH369/11-2019)
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.