Hòa bình, thống nhất - nguyện ước một thời

08:59 01/03/2012

NGÔ THẢO
(Từ kỷ niệm của một nhà văn)

Trong đời mỗi người, thường vẫn có một nhà văn, mà ta thường tìm tới đọc lại vào những lúc cuộc sống chung hoặc riêng gặp những chuyện cần suy nghĩ.
 

Nhà văn Nguyễn Thi - Ảnh: vannghequandoi

Với riêng tôi, đó là nhà văn Nguyễn Ngọc Tấn tức Nguyễn Thi. Đã hẳn, anh không phải là một nhà văn lớn. Nghe nhiều người nói, khi còn sống, trong quan hệ với những người xung quanh, anh không thuộc loại người khôn khéo. Sự thẳng thắn của anh từng làm nhiều người mất lòng. Nghĩa là quen biết anh cũng không dễ chịu chút nào. Những trang sách đã in của anh, có một thời tôi đã đọc rất ham thích, nhưng nay đọc lại, hương xưa cũng bay đi khá nhiều, bởi đó chưa phải là những tác phẩm mà cái giếng sâu tư tưởng không bị vơi cạn dần theo thời gian.

Lúc tôi từ mặt trận Trị Thiên trở về làm báo ở tờ Tạp chí anh đã từng sống, thì anh đã trở lại chiến trường và đã hy sinh. Tin ấy, tôi biết được, do một người bạn học tình cờ gặp trên một chặng đường giao liên qua phía động Cô Tiên gần Dốc Con Mèo trong một ngày mưa của năm 1969 nhiều gian khổ ở phía Tây Thừa Thiên.

Anh hy sinh ở một nơi nào đó, vào một ngày nào đó, đã có bao bạn văn và đồng đội viết hồi ức, mà đến nay vẫn chưa ai xác định rõ. Điều duy nhất biết chắc là sau lần tham gia tổng tấn công Sài Gòn đợt hai vào mùa hè năm Mậu Thân không thể quên, anh đã không trở về. Cả điều đó nữa, cuộc đời anh cũng giống bao nhiêu đồng đội một thời, sinh Bắc, tử Nam. Anh không có mặt trong ngày chiến thắng đầu hè 1975, nhưng có một người mẹ, những người con vẫn đợi anh về. Lần trở lại tiểu sử, tôi biết, anh có một người bố hai đời vợ, một người mẹ hai đời chồng. Đến lượt anh cũng có hai đời vợ và mỗi người vợ anh không dưới hai đời chồng. Quê ở Hà Nam Ninh, anh hy sinh ở cửa ngõ phía Tây thành phố mang tên Bác, nơi anh đã có mặt từ tuổi thanh niên, từng tham gia chiến đấu trước ngày đi tập kết. Anh vào thành phố, ngoài nhiệm vụ chiến đấu, còn có một nguyện vọng riêng, tìm gặp người con gái sinh ngày anh lên tàu tập kết, ngoài mọi tình thương cha con bình thường còn có nhiều xót xa ân hận là mình có lỗi với con.
 

Một trang ghi chép của nhà văn Nguyễn Thi - Ảnh: qdnd.vn

Nói cho cùng, cả cuộc đời ngổn ngang chắp vá ấy cũng là khá phổ biến ở đất nước mình mấy chục năm chiến tranh. Tôi chỉ bắt đầu chú ý đến anh, nói cho đúng ra, anh chỉ bắt đầu lôi cuốn và ám ảnh tôi là từ ngày tôi lần lại những trang sổ tay ghi chép của anh. Phần lớn, đó là những cuốn vở học trò, anh ghi chép trong lần trở lại Nam Bộ thứ hai, do một bạn văn gửi về miền Bắc sau khi anh hy sinh. Hơn 15 năm qua, mực phai, giấy úa, nhiều trang thấm nước sắp tự hủy theo thời gian. Nét chữ li ti rất khó đọc. Nhưng càng đọc, tôi càng bị lôi cuốn bởi sự thực của đời sống chiến tranh ở một vùng mình chưa hề tới. Cuốn Năm tháng chưa xa - gồm một phần ghi chép của anh, giá mà không gặp bao nhiêu trắc trở đầy bí ẩn, thì đã có thể ra đời, giúp bạn đọc biết thêm một phần con người nhà văn.

Từ đó, lần trở lại, tôi bàng hoàng trước những trang ghi chép về Hiền Lương, đôi bờ con sông tuyến, mảnh đất đã mang lại cho anh những xúc động lớn, buộc anh cầm bút và trở thành nhà văn. Dạo đó, có biết bao nhà văn nhà thơ cả nước và thế giới đã tìm tới mảnh đất này. Những trang ghi chép chi tiết vụn vặt, lần lượt làm sống lại trong tôi những tình cảm thiết tha, bỏng cháy một thời. Có những chị phụ nữ, đăm đăm nhìn sang bờ Bắc, tìm trong những người công an giới tuyến, xem có bóng chồng mình không. Khi nhận ra người mà chị đinh ninh là chồng, ngày ngày chị như bám chân tại chỗ để ngắm. Cái nón trên tay, trong nắng hè người ta quạt từ trên xuống. Muốn làm dấu cho người ngỡ là chồng, chị quạt ngược từ dưới lên.

Để nhìn người thân trên bờ bắc, che mắt giặc, có chị đem hết mọi thứ có trong nhà ra sông giặt. Cơm trưa mà ra vo gạo từ nửa buổi. Có lần, ở một đoạn sông, nhìn sang bên kia, nhà văn lấy làm lạ, có một vườn chuối nhà ai lá rách tan tác như riêng nó bị bão. Quan sát kỹ, anh mới nhận ra, nơi đó có một người con gái, nhớ ai, đợi ai, nhìn ai trên bờ Bắc, nấp dưới tàu lá chuối, đôi bàn tay bối rối không tự điều khiển được cứ xé nát những ngọn lá chuối trong vườn nhà... Và còn biết bao chi tiết, câu chuyện, hình ảnh cảm động ghi lại nguyện ước thiết tha, một thời: hòa bình thống nhất cho quê hương.

Tròn hai mươi năm sau những ngày Nguyễn Ngọc Tấn về Vĩnh Linh, đi dọc bờ sông Hiền Lương từ biển lên nguồn và cần mẫn ghi chép những điều mắt thấy tai nghe ấy, nước nhà mới thống nhất! Ngày ấy, ở miền Tây anh đến núi rừng Trường Sơn còn bạt ngàn kín đáo. Ngày thắng lợi anh không còn có thể trở về để nhìn lại đôi bờ sông tuyến. Để cho đôi bờ thuộc về một dòng sông bình yên, nơi đầu nguồn xưa, giờ có một vùng đồi phong quang, là nơi yên nghỉ của hai vạn chiến sĩ quê ở mọi miền đất nước. Nghĩa trang Trường Sơn nằm đó như một lời nhắc nhủ thiết tha và nghiêm khắc với mọi người còn sống ý thức về nghĩa vụ sống của mình. Đó là một tượng đài hùng vĩ và thiêng liêng nhắc nhủ nhiều thế hệ cái giá phải trả cho độc lập thông nhất hòa bình.

Nguyễn Ngọc Tấn không có một trong số đó. Anh đã ra đi và hình như vẫn tiếp tục cuộc hành trình về phía trước. Lần trong sổ tay anh có mấy lần thấy anh ghi nội dung các cuộc họp cơ quan của anh hồi còn ở miền Bắc. Nơi đây có một ông phụ trách tốt bụng nhưng ôm đồm và đại khái! Có người hoàn toàn vô trách nhiệm với việc cơ quan với đồng đội. Có người băn khoăn vì bất tài và không thể viết lên tay. Có người luôn tìm mọi cơ hội, mưu kế đánh lừa cơ quan hữu trách để đưa bà vợ và gia đình ở quê ra Hà Nội... Tất cả họ, ít nhiều những năm qua đều có đi mặt trận. Nhưng tất cả vẫn còn sống. Giờ có người đã là cán bộ có uy tín, có người là nhà văn lớn của nước nhà. Riêng chủ nhân những cuốn sổ tay là không trở về. Anh để lại cho chúng ta nguyện ước thiêng liêng về một nền hòa bình thống nhất đất nước. Anh đã đem niềm vui, nỗi buồn của cuộc đời mình cùng hàng triệu người dân yêu nước trả giá cho nguyện ước đó thành hiện thực.

N.T.
(SH20/8-86)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.

  • (Đọc tập thơ “Thế giới và tôi” của Ngô Tự Lập)Tôi kém Ngô Tự Lập hơn chục tuổi nhưng không “trẻ” hơn anh. Tuổi trẻ làm ta cao ngất lên, tuổi già đôi khi cũng vậy. Nhưng cao ngất lên ta thấy gì nào?

  • “Tết không vào nhà tôi”(*)nghĩa là tết không vào nhà Phùng QuánCâu thơ tâm trạngVấn nạn một đời

  • Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.

  • Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.

  • Chỉ trong vòng 63 năm từ 1930 đến 1993, văn học Mỹ đã vinh dự nhận được 11 giải Nobel. Đây là một thành tựu vượt bậc đáng tự hào mà không phải bất cứ một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đóng góp vào ánh hào quang ấy có John Steinbeck - nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ.

  • (Đọc “Thơ Trần Quốc Thực” – Nxb HNV 2007)Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoe mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp, sự âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh.

  • Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.

  • (Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.

  • Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...

  • Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người

  • Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.

  • Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.

  • Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm

  • Ai cũng biết, anh là tác giả của các tập thơ và trường ca Bến đợi, Hát rong, Hoa tường vi trong mưa, Ngựa trắng bay về, Gõ chiều vào bàn phím...với những thao thiết của dã quỳ vàng, của thông xanh, xoan tím, phượng hồng, những gió và nắng, những bùn lầy và cát bụi, những cần rượu và cồng chiêng