Họ cùng nói về mô hình nhạc viện Huế

10:56 30/07/2009
VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

Cuộc toạ đàm đã thu hút sự tham gia của hầu hết các nhạc sĩ ở Huế, cùng nhiều giáo sư, nhạc sĩ thuộc hai nhạc viện Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Giáo sư, nghệ sĩ nhân dân Trọng Bằng, Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã về Huế tham gia chủ trì toạ đàm. Những ý kiến phát biểu hôm đó hầu như đã vượt ra khỏi tiêu chí đã nêu. Điều ấy thể hiện nổi bật ở một số vấn đề: Bây giờ mới bàn đến việc thành lập Nhạc viện Huế là quá chậm so với chủ trương của Chính phủ. Không nói "sự cần thiết" nữa, mà là "phải có" một nhạc viện ở Huế. Nhạc viện Huế là của miền Trung - Tây Nguyên và của cả nước. Phải bàn ngay đến mô hình đào tạo, cơ cấu tổ chức có những gì khác với hai nhạc viện Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nếu không Nhạc viện Huế chỉ là bản sao của hai nhạc viện kia. Nhạc viện Huế sẽ phải chú trọng và chuyên sâu đến âm nhạc truyền thống và phải tính đến "đầu ra" trong đào tạo, làm sao cho phù hợp với yêu cầu thực tế của xã hội.v.v...

Trong bài phát biểu đề dẫn của nhạc sĩ Trương Ngọc Thắng, Hiệu trưởng Trường Đại học Nghệ thuật Huế có đoạn: "Có thể nói, con đường để hình thành một Trung tâm đào tạo âm nhạc tại Huế (mà cụ thể là Nhạc viện Huế) đã được Chính phủ, Thường vụ tỉnh uỷ và Đảng uỷ Đại học Huế đặc biệt quan tâm. Việc thành lập Nhạc viện Huế cho đến thời điểm này không chỉ còn là ý tưởng như lâu nay chúng ta thường nói với nhau mà đã là nhiệm vụ cấp thiết của cả hai Bộ: Văn hoá Thông tin và Giáo dục Đào tạo; của tỉnh Thừa Thiên Huế; của Đại học Huế, mà trước hết là nhiệm vụ chủ yếu của Trường đại học nghệ thuật. Mặc dù, cho đến nay trường vẫn chưa có ý kiến chỉ đạo nào của lãnh đạo các cấp: đó là giao cho ai chủ trì, bộ phận nào phối hợp, đơn vị nào là cơ quan tham mưu, tư vấn chủ yếu?... Tuy nhiên, "Sự cần thiết thành lập nhạc viện ở Huế" cần phải có các cơ sở khoa học của nó, trước khi đơn vị nào đó được các cấp lãnh đạo giao nhiệm vụ xúc tiến dự án thành lập  Nhạc viện Huế".

Theo giáo sư Trọng Bằng: Với nhu cầu đòi hỏi cao của xã hội như hiện nay, thì việc thành lập Nhạc viện Huế là điều tất yếu. Không nên chờ cho điều kiện quá đầy đủ rồi mới thành lập. Trước đây Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Nhạc viện Hà Nội) được thành lập trong điều kiện thiếu thốn cả con người lẫn phương tiện giảng dạy; trong chiến tranh phải tổ chức hoà nhạc dưới hầm, dàn nhạc giao hưởng phải biểu diễn trên đồi, dưới ánh trăng... song vẫn đào tạo ra rất nhiều nhân tài âm nhạc cho đất nước. Việc thành lập Nhạc viện Huế hiện nay đang có nhiều thuận lợi; và ở đây phải lấy âm nhạc truyền thống làm nòng cốt. Nhạc viện Huế ra đời phải cố gắng định hình ngay bằng những nét đặc thù của mình...

Đối với giáo sư Minh Khang (Nhạc viện Hà Nội): Việc thành lập Nhạc viện Huế là yêu cầu cấp bách. Điều này đã có chủ trương của Chính phủ và Nghị quyết của Thường vụ tỉnh uỷ. Thế mạnh của Huế là Nhã nhạc và các loại hình âm nhạc truyền thống khác, thể hiện ở các mặt: đội ngũ biểu diễn, các nghệ nhân, các nhà nghiên cứu. Có thể thành lập ở đây một Học viện âm nhạc Quốc gia theo hướng dân tộc học âm nhạc, giống với mô hình của một số nước trên thế giới. Trong những năm trước mắt, Nhạc viện Huế cần nhanh chóng chuẩn hoá đội ngũ giáo viên; và sẽ có một số giáo sư từ hai nhạc viện Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh về trợ giúp...

Phó giáo sư, nhạc sĩ Hà Sâm (Huế) cho rằng: Thành lập Học viện âm nhạc Quốc gia tại Huế là rất hợp lý. Một khi Nhã nhạc Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể thì không có lý gì chúng ta lại không có một trung tâm để nghiên cứu nó. Việc đào tạo âm nhạc ở Huế phải có những điểm khác với đào tạo ở hai thành phố lớn hai đầu đất nước; cần chú ý "đầu ra", không đào tạo tràn lan. Theo ông, sau khi Nhạc viện Huế ra đời, thì các đơn vị biểu diễn nghệ thuật của tỉnh nên được quy hoạch lại...

Quan điểm của nhạc sĩ Việt Đức, Chi hội trưởng Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế: Nhạc viện Huế sẽ lấy việc nghiên cứu Nhã nhạc làm nòng cốt, sau đó là âm nhạc truyền thống của cả miền Trung và Tây Nguyên. Tương lai nếu cần học nghệ thuật giao hưởng, Huế sẽ cử người đến hai nhạc viện ở hai đầu đất nước; ngược lại nếu cần học tập, nghiên cứu âm nhạc truyền thống thì hai nhạc viện kia phải cử người về Huế ...

Nhà thơ Võ Quê, Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế: Huế là nơi hội tụ tinh hoa của âm nhạc dân tộc. Cả nước có thể phải về Huế để nghiên cứu âm nhạc truyền thống Huế. Việc thành lập Nhạc viện Huế là mong muốn của nhân dân Huế và nhân dân cả nước...

Nhạc sĩ Minh Phương (Huế): Nhạc viện Huế sẽ là nơi nghiên cứu, lý luận, phê bình, đánh giá, tôn tạo cái hay, cái đẹp của âm nhạc miền Trung và của cả nước; chắc chắn sẽ góp một phần làm ổn định đời sống âm nhạc. Nhạc viện Huế sẽ có con đường đi của nó...

Tiến sĩ Lê Toàn, Phó viện trưởng Viện âm nhạc Hà Nội nhận thấy, khi ông đến thăm Bảo tàng cung đình Huế thì còn rất nhiều thông tin về âm nhạc truyền thống đang còn để trống; việc này cần sớm được nghiên cứu. Theo ông, nếu Nhạc viện Huế cũng giống mô hình của hai nhạc viện Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì sẽ không đuổi kịp họ và sẽ bị mờ nhạt. Tuy nhiên, nếu ở đây chỉ giáo dục riêng về âm nhạc dân tộc thì sẽ không phù hợp, cần phải hoà nhập với thời đại...

Nhạc sĩ Nguyễn Đình Sáng, Phó giám đốc Sở Văn hoá Thông tin Thừa Thiên Huế coi việc thành lập  Nhạc viện Huế lúc này đang là một vận hội, cũng là điều kiện để Trường Đại học Mỹ thuật Huế tồn tại độc lập. Theo ông, mỹ thuật và âm nhạc là hai chuyên ngành nghệ thuật khác biệt nhau, nếu cùng tồn tại trong một trường đại học là bất hợp lý, có thể ví như "hai con hổ nhốt chung một chuồng". Ông cho rằng Nhã nhạc chỉ là một bộ phận quan trọng của Nhạc viện Huế, nên không phải thành lập nhạc viện vì Nhã nhạc, và chúng ta cũng đừng quá choáng ngợp với Nhã nhạc. Nhạc viện Huế là nhạc viện của miền Trung - Tây Nguyên đặt tại Huế ...

Y kiến của ông Nguyễn Thái Sơn, Phó Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế: Nhạc viện Huế phải mang được tính kế thừa của các nhạc viện đi trước, và phải mang tính tập trung, không bị phân tán khi mô hình đã hình thành. Về phương hướng hoạt động cần được xây dựng thật cụ thể...

Với phó giáo sư, tiến sĩ Vũ Nhật Thăng (Nhạc viện Hà Nội) thì Nhạc viện Huế thành lập rồi sẽ chuẩn hoá dần đội ngũ. Chỉ thành lập các khoa cần thiết, căn cứ vào mục tiêu đào tạo và khả năng cho phép của mình. Phải chú ý người dân miền Trung đang cần gì và chúng ta chỉ đào tạo theo hướng đang cần đó. Theo ông, Việt Nam chỉ có hai khối nhạc là nhạc mới và nhạc cổ. Hai nhạc viện ở hai đầu đất nước chủ yếu làm nhạc mới, hầu như không có nhạc cổ truyền. Cho nên, Nhạc viện Huế nên thiên về nhạc cổ, song cũng không xem nhẹ nhạc cụ phương Tây.

Theo ý kiến của giáo sư mỹ học Dương Viết Á (Nhạc viện Hà Nội) thì chức năng của Nhạc viện Huế nên tăng cường bộ phận nghiên cứu và phải lấy bản sắc của địa phương đó để làm cốt lõi...

Nhạc sĩ Trần Thanh Trung (Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh): Đi ngược lại thời gian, từ thời phong kiến thì Huế là nơi đầu tiên có trường đào tạo nghệ thuật tuồng của đất nước. Việc thành lập Nhạc viện Huế phải chăng là sự tiếp nối truyền thống của vùng đất văn hoá. Ông đề nghị Nhạc viện Huế nên hình thành những nét đặc trưng để các miền và các nước đến đây học tập...

Cuộc toạ đàm khép lại trong không khí đầy hào hứng. Tất cả các ý kiến tham gia đều thể hiện sự mong muốn Nhạc viện Huế sớm ra đời và trở thành Nhạc viện Quốc gia thứ ba của Việt Nam sau hai nhạc viện Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

VIỆT HÙNG  (Lược ghi)
(182/04-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang