Hồ Chủ Tịch - nguồn cảm hứng sáng tạo cho nhiều họa sĩ Việt Nam

10:17 29/02/2016

PHƯỚC VĨNH

Hình ảnh Hồ Chủ tịch là nguồn cảm hứng sáng tạo đối với nhiều nghệ sĩ tạo hình Việt Nam.

Tem thư vẽ Bác Hồ đầu tiên của danh họa Nguyễn Sáng - Ảnh: internet

Chân dung Bác Hồ được đưa vào tem thư Việt Nam cuối năm 1945, con tem đầu tiên do họa sĩ Nguyễn Sáng sáng tác, như một thông điệp của nhân dân Việt Nam công bố với thế giới chân dung vị lãnh tụ dân tộc, đánh dấu một giai đoạn lịch sử của đất nước.

Những tác phẩm hội họa sớm nhất thể hiện Hồ Chủ tịch đã hình thành từ mùa xuân 1946, ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công. Lúc ấy dù rất bận rộn, Người vẫn đồng ý cho ba nghệ sĩ tạo hình là Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Thị Kim được vẽ và nặn tượng.
 

Tác phẩm “Hồ Chủ tịch làm việc ở Bắc Bộ Phủ” của Tô Ngọc Vân

Bức sơn dầu nổi tiếng “Hồ Chủ tịch làm việc ở Bắc Bộ Phủ (1946)”, họa sĩ Tô Ngọc Vân đã thể hiện sinh động chân dung Người, thể hiện sự hòa hợp giữa thể hình nhân vật và thời gian lẫn không gian lịch sử. Lúc ấy Người vừa từ núi rừng Pắc Pó trở về, còn mang đầy dấu ấn của nhiều năm tháng bôn ba gian khổ hoạt động cách mạng. Dáng Người gầy trong bộ kaki giản dị, đi đôi giày dân tộc Nùng gọn gàng, gương mặt trầm tư âu lo vận nước. Những nét vẽ sử dụng bút pháp khỏe, sinh động, đã truyền cảm mạnh mẽ đến người xem.

Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung lúc đó dùng thể loại khắc gỗ để sáng tác bức tranh nổi tiếng “Bác Hồ năm 1946”, thể hiện hình ảnh Hồ Chủ tịch với nét mặt nhìn nghiêng, một phác hình lãnh tụ rất đẹp, khái quát sâu, vầng trán cao, vòm tóc, chòm râu, đôi mắt linh lợi. Nguyễn Thị Kim thể hiện Người qua bức tượng bán thân trong tư thế chú tâm vào công việc, toát lên phong thái của một nhà lãnh đạo xuất chúng, giản dị.

Về sau, họa sĩ Tô Ngọc Vân còn hai lần vẽ Hồ Chủ tịch. Trong đó có bức vẽ vào tháng 3/1951, thể hiện hình ảnh Người trên bức tranh màu nước khổ lớn, mặc áo bông tay để xuống bàn màu đỏ, đang nói chuyện trước hội nghị. Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung năm 1968 có dịp vẽ chân dung Người lần nữa, và sau này là một trong số rất ít họa sĩ được trình bày trang trí mỹ thuật phần đặt linh cữu trong lăng Hồ Chủ tịch.

Có một câu chuyện hết sức cảm động là năm 1947, tại Đồng Tháp Mười, trong một đêm cảm xúc dâng tràn, họa sĩ Diệp Minh Châu đã lấy máu từ tay mình vẽ bức “Bác Hồ với ba em thiếu nhi Trung Nam Bắc”. Về sau ông còn xây dựng nhiều tượng Hồ Chủ tịch “Bác dịch sử Đảng” (1980), “Bác bên suối Lê Nin” (1982), “Bác viết luận cương” (1985)… Một họa sĩ khác cũng từng vẽ Hồ Chủ tịch bằng máu, là họa sĩ mù Lê Duy Ứng. Đó là bức tranh nổi tiếng “Ánh sáng niềm tin”.

Nhiều họa sĩ Việt Nam đã thể hiện hình ảnh Hồ Chủ tịch với niềm tôn kính sâu sắc.

Trong kháng chiến chống Pháp và những năm tháng hòa bình đầu tiên, các họa sĩ và các nhà điêu khắc thể hiện Hồ Chủ tịch trong tình chan hòa với nhân dân ở thời bình. Trong kháng chiến chống Mỹ, nhiều hình ảnh Hồ Chủ tịch đang làm việc, về thăm nông dân, đến thăm trận địa pháo cao xạ, cùng với dân quân du kích… được thể hiện.

Đáng chú ý là các tác phẩm chân dung sơn dầu của họa sĩ Trần Văn Cẩn “Bác Hồ bên suối Lê Nin” thể hiện phong thái ung dung của Bác. Họa sĩ Văn Giáo có nhiều tác phẩm: “Trở về biên giới 1941”, “Bác đọc bia ở Côn Sơn”, “Bác soạn Tuyên ngôn ở Hàng Ngang”… Họa sĩ Trịnh Phòng có bức “Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”; Nguyễn Văn Chiến có “Đầu nguồn cách mạng”; Quang Thọ có “Bác Hồ với dũng sĩ miền Nam”; họa sĩ Vương Trình có nhiều tác phẩm “Bác Hồ với bộ đội pháo”, “Bác Hồ với nông dân”, “Bác Hồ với chiến sĩ thi đua”; họa sĩ Nguyễn Nghĩa Duyện có “Bác đang cùng bộ đội hành quân”; Văn Đa có “Bác với bộ đội trong rừng”; Trần Đình Thọ thể hiện Hồ Chủ tịch cùng các đồng chí Trung ương bàn chiến dịch trong bức tranh “Điện Biên Phủ”; Đỗ Hiển có “Bác Hồ với trận địa phòng không”… Họa sĩ Dương Bích Liên thành công với tác phẩm “Bác Hồ đi công tác ở Việt Bắc”, thể hiện trên tranh sơn mài khổ lớn, với dãy núi xa xa, và Bác đang chuẩn bị cương ngựa lên đường…

Hình tượng Hồ Chủ tịch trong tranh cổ động nhiều tác phẩm tạo hiệu ứng thẩm mỹ cao. Họa sĩ Nguyễn Thụ và Huy Oánh có “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”; họa sĩ Lê Huy Trấp có “Hồ Chủ tịch”…

Nhà điêu khắc Mai Văn đang tạc tượng Bác Hồ


Hình ảnh Hồ Chủ tịch trong điêu khắc nặn tượng cũng rất phong phú. Trần Tía với chạm gỗ “Bác Hồ với thiếu nhi”; Lê Thành Công với tượng “Bác Hồ 1920”; Đặng Hiền với phù điêu “Chân dung Bác” nhìn nghiêng; Lều Thị Phương với “Chân dung Bác” trên nền son sơn mài; Minh Đỉnh với các tượng “Bác dịch sử Đảng, “Bác đi chiến dịch”; Nguyễn Thiện với “Bác ngồi đọc báo”… Có một số sự kiện của ngành hội họa đáng ghi nhớ. Năm 1970, một năm sau ngày Hồ Chủ tịch qua đời, các họa sĩ Việt Nam đã tổ chức trưng bày phòng tranh thể hiện niềm tiếc thương vô hạn. Nhiều tác phẩm xúc động đã được trưng bày: họa sĩ Quang Phòng có “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ”; Đào Đức có “Đêm nay Bác không ngủ”; Vương Học Báo có “Chân dung Bác” trên phù điêu…Mùa hè năm 1974, nhóm họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, Trần Đình Thọ, Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị đã vẽ khu nhà sàn của Bác. Họa sĩ Trần Văn Cẩn vẽ “Nhà Bác ở Kim Liên”, “Giếng Cốc quê Bác”, “Trúc Bác trồng ở Cao Bằng”… Những tác phẩm này không có hình ảnh Bác, nhưng người xem có thể nhận ra hình bóng Hồ Chủ tịch ở đó, với cốt cách một con người vĩ đại.

Nhiều tượng đài Hồ Chủ tịch được các nhà điêu khắc thể hiện, tiêu biểu có Diệp Minh Châu tạc đá chân dung Bác cao 5,5m (chưa kể bệ).

*

Bức chân dung Bác Hồ của Lê Minh Trường được làm bìa Tạp chí Sông Hương số 303, 5/2014

Giới họa sĩ Thừa Thiên Huế cũng rất nhiều người thể hiện chân dung Hồ Chủ tịch với niềm xúc động. Nhân dịp sinh nhật Bác 19/5/1967, họa sĩ Lê Minh Trường, trình bày báo Cờ Giải Phóng Thừa Thiên Huế, giữa chiến trường đầy đạn bom vẫn sáng tác tranh khắc gỗ chân dung Hồ Chủ tịch in báo, với dòng chữ “Kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ 19/5, quân và dân quê ta kính chúc Người mạnh khỏe, sống lâu” (Bức tranh ký tên là Nguyễn Minh Trường). Họa sĩ Lê Minh Trường là người con của huyện Phong Điền, từng tham gia làm báo ở chiến khu Thừa Thiên trong chống Mỹ, sau đó hy sinh vào năm 1968.

Cả nước từ lâu biết đến các họa sĩ Lê Thái, Trần Xuân Phúc, Trần Mai… dành trọn đời để vẽ chân dung Hồ Chủ tịch; họa sĩ nhà điêu khắc Mai Văn ở Huế cũng tương tự như vậy. Trước khi qua đời năm 2014, ông có hơn 30 năm gắn bó với nghề điêu khắc, đúc hàng ngàn bức tượng Bác Hồ. Năm 1980, tại triển lãm thủ công mỹ nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế, nhà điêu khắc Mai Văn đã đúc tượng Bác Hồ bằng đồng, cao 1,8m. Năm 1982, tỉnh Quảng Trị đã mời ông dựng bức tượng Bác về thăm nhà trẻ Vĩnh Linh cao 3m. Nhân Hội thao toàn quân tại Huế năm 1984, ông đã làm 50 bức tượng Bác để tặng các đơn vị về dự hội. Năm 1994, ông cũng được tỉnh Quảng Bình mời ra nặn bức tượng Bác cao 3m. Năm 2010, đồng bào miền Tây và miền Đông Nam Bộ đã đặt ông 8.000 bức tượng Bác để đặt trong nhà…

Nhà điêu khắc Mai Văn tạc tượng Hồ Chủ tịch, thể hiện Người toát lên phong thái của một bậc vĩ nhân nhưng lại rất hiền hòa, gần gũi. Ông gửi gắm vào đó bao tình cảm mến yêu và lòng tôn kính đối với vị cha già của dân tộc mà nếu “Không có tình cảm thì không làm được” như ông chia sẻ. Khi tuổi đã cao, nhà điêu khắc Mai Văn vẫn hào hứng: “Khi nào còn sức khỏe thì tôi còn tạc tượng Bác Hồ. Bây giờ, tôi mới làm Bác Hồ là lãnh tụ. Tôi còn muốn thể hiện Bác Hồ là nhà thơ, nhà văn hóa thế giới, danh nhân văn hóa thế giới…”.

Mới gần đây thôi, hàng trăm tác phẩm hội họa về Hồ Chủ tịch đã được sinh viên Trường đại học Nghệ thuật Huế thể hiện. Hình ảnh Hồ Chủ tịch thật sự vẫn là nguồn cảm hứng sáng tạo cho nhiều họa sĩ Việt Nam(*).

P.V
(SH324/02-16)


--------------------------------------
(*)
Bài viết có sử dụng tư liệu trong các bài viết “Hình ảnh Bác Hồ trong nghệ thuật tạo hình” (Nguyễn Hải Yến), “Ba lần vẽ Bác Hồ (Tô Ngọc Thanh), “Tấm lòng của các nghệ sĩ tạo hình với Bác Hồ” (Nguyễn Văn Chiến).





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.