Hồ Chí Minh - nhà thơ lớn của thiếu nhi

09:16 13/11/2009
VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

Bác Hồ với thiếu nhi - Ảnh: trancongbinh.violet.vn

Sau "Nhật ký trong tù", thơ Bác bao gồm: thơ chúc tết, thơ tự tình, những vần thơ lẻ xen lẫn văn xuôi và thơ cho các lứa tuổi (trong đó có thiếu nhi) viết bằng chữ Việt và chữ Hán. Không kể phần thơ chữ Hán, trong 68 bài thơ chữ Việt có 8 bài Bác viết cho thiếu nhi. Đối với thiếu nhi bác có một tình cảm yêu thương đặc biệt. Nhà thơ Tố Hữu viết:

            "Và các em có hiểu vì sao
            Lòng Bác mênh mông vẫn dạt dào
            Yêu nụ mầm non, yêu tuổi trẻ
            Biển thường yêu vậy sóng xôn xao"
                                    ("Theo chân Bác" - Tố Hữu)

Ngoài lý do thông thường dễ hiểu là tình cảm tự nhiên đối với con trẻ, những nụ mầm của đất nước, những tâm hồn trong trắng, ngây thơ, còn có một lý do khác lớn hơn: Bác không có gia đình riêng, Bác đã lấy cả nước làm gia đình, năm châu làm bầu bạn và tất cả thanh thiếu nhi làm con cháu. Những bài thơ Bác viết cho thiếu nhi, vì vậy mà chứa chan tình cảm yêu thương, ruột thịt.

Trong thời kỳ mặt trận Việt Minh những bài thơ tuyên truyền vận động của Bác là tiếng nói của một tấm lòng yêu thương mênh mông. Ở đây những chủ trương, chính sách, những tư tưởng cách mạng đã đượm tình của Bác và sự rung động cảm thông của người kêu gọi, chính là nguyên nhân sâu xa tạo nên sức lay động thuyết phục của những vần thơ, bài ca. Bác xót xa cho cảnh nô lệ của các em thời Pháp-Nhật:

            "Học hành, giáo dục đã không
            Nhà nghèo lại phải làm công cày bừa
            Sức còn yếu, tuổi còn thơ
            Mà đã khó nhọc cũng như người già".
           
("Kêu gọi thiếu nhi "-Hồ Chí Minh" (thơ) - N.X.B.Văn học 1975-Tr.21)

Trong hàng loạt bài thời kỳ này, đối tượng tuyên truyền trong nhiều tầng lớp khác nhau: "Ca binh lính" - "Bài ca du kích" _ "Công nhân" "Dân cày" - "Phụ nữ" - và "Thiếu nhi". Cái tình của Bác trong những bài này không phải là lòng thương hại, sự cảm thông, chia xẻ của người đứng ngoài mà là nỗi niềm yêu thương của một tấm lòng vốn hòa làm một với nhân dân, đau với nỗi đau của nhân dân những người gắn bó máu thịt với mình. Với thiếu nhi nỗi đau của Bác nhân lên nhiều lần, là nỗi đau của người ông, người cha trước cảnh:
            "Có khi lìa mẹ, lìa cha
            Để làm tôi tớ người ta bên ngoài".
           
("Kêu gọi thiếu nhi" - "Hồ Chí Minh" (thơ) N.X.B.Văn học 1975 Tr.21) và Người kêu gọi:   
            "Vậy nên trẻ em nước ta
            Phải đoàn kết lại để mà đấu tranh
            Người lớn cứu nước đã đành
            Trẻ em cũng góp phần mình một tay"
                       
("Kêu gọi thiếu nhi" - Sđd. Tr.21).

Thơ tuyên truyền, vận động của Bác là tiếng nói của trái tim đi đến với trái tim. Nếu thiếu một tình thương chân thành và sâu sắc thì khó mà thuyết phục, giác ngộ quần chúng, đặc biệt là thiếu nhi.

Trong nghệ thuật tuyên truyền của Bác là Bác có thể đặt mình vào chỗ người, nói tiếng nói của người. Những bài ca, vần thơ của Bác đồng thời cảm hóa, rung động người đọc, người nghe bằng tình:
            "Vì ai ta chẳng ấm no?
            Vì ai ta đã phải lo cơ hàn?
            ... Vì ai ngăn cấm học hành?
            Vì ai ta phải chịu đành dốt ngây?"
                       
("Trẻ chăn trâu" - Sđd. Tr. 45)

Là một chiến sỹ cộng sản, hơn ai hết Bác chú ý đến sự giác ngộ lý tưởng cộng sản của quần chúng nhân dân. Là một nhà thơ cách mạng, Bác quan tâm và rất có ý thức dùng thơ ca để thức tỉnh tinh thần cách mạng của mọi tầng lớp trong đó có thiếu nhi. Điều này các nhà cách mạng trước bác chưa làm được (Có chăng mới chỉ chú ý đến lứa tuổi thanh niên).

            " "Nhi đồng cứu quốc" hội ta
            Ấy là lực lượng, ấy là cứu tinh
            Ấy là bộ phận Việt Minh
            Dân mình khắc cứu dân mình mới xong".

Có lẽ Hồ Chí Minh là người đầu tiên phát hiện và thấy được vai trò lịch sử của thiếu nhi trong sự nghiệp cứu nước và cũng là lần đầu tiên thiếu nhi trở thành lực lượng không thể thiếu trong cuộc cách mạng do Bác Hồ và Đảng tổ chức lãnh đạo. Thực tế, thiếu nhi đã không phụ lòng Bác, nhiều em đã có những đóng góp tích cực và lớn lao cho kháng chiến. Được tin cháu Phạm Đỗ Hải và cháu Lê Văn Thục bắt sống Tây, Bác viết 2 bài thơ khen: “Thế là cháu giỏi, biết cách tuyên truyền, Bác gửi lời khen." và: "Bác gửi lời khen, khuyên cháu tập rèn, ngày càng tiến bộ". Tình thương yêu của Bác biểu hiện bằng sự quan tâm nhiều khi rất cụ thể, thiết thực nhưng hàm chứa ý nghĩa vô cùng lớn lao. Giữa bao nhiêu công việc bề bộn, bận rộn của cách mạng của Đảng, Bác vẫn không quên và gửi đến một cháu bé dân tộc ít người:
            "Vở này ta tặng cháu yêu ta
            Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là
            Mong cháu ra công mà học tập
            Mai sau cháu giúp nước non nhà"
                       
("Tặng cháu Nông Thị Trưng" - Sđd. Tr.44)

Chất trữ tình hội tụ trong chùm thơ trung thu của Bác. Vui với thắng lợi của cuộc kháng chiến trong những năm cuối, vui với thế hệ thiếu niên, nhi đồng sinh ra, lớn lên dưới chế độ mới, vui với cái vui chung của dân tộc, với trung thu của thiếu nhi:
            "Chín tết trung thu
            Tám năm kháng chiến
            Các cháu khôn lớn
            Bác rất vui lòng"
                       
("Gửi các cháu nhi đồng nhân dịp trung thu năm 1953 - Sđd. Tr.67)

Nếu như trung thu 1951 cảnh trăng gợi nhớ:
            "Trung thu trăng sáng như gương
            Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng
            Sau đây Bác viết mấy dòng
            Gửi cho các cháu, tỏ lòng nhớ nhung"
                       
("Thư trung thu 1951)

Trí tưởng tượng trong thơ từ xưa đến nay, thường đem ánh trăng nhập vào cảnh ngộ: Vầng trăng của nỗi nhớ thương xa cách và nhiều khi trăng lại được miêu tả tạo nên những liên tưởng về không gian và thời gian. Về thời gian trăng thường là biểu tượng cụ thể của biết bao sự đổi thay. Trăng tròn rồi trăng lại khuyết, một đơn vị thời gian nhưng ý nghĩa bao quát hơn là sự trôi qua đi nhanh chóng của cuộc đời, của tuổi xuân. Trăng cũng gợi lên ý niệm về không gian. Tùy theo tư thế của con người có làm chủ mình và làm chủ thiên nhiên hay không, mà không gian mênh mông tràn ngập ánh trăng ấy là thân thuộc hay xa lạ. Trăng trong thơ Bác thường rất sáng. Trăng trung thu càng sáng hơn tạo nên không gian bao la không giới hạn:
            "Trung thu trăng sáng như gương
            Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng".

Trong điều kiện kháng chiến, Bác ở Việt Bắc xa cách nhi đồng cả nước. Cấu tạo câu thơ: "Bác Hồ" ở đầu câu, "Nhi đồng" ở cuối câu. Vị trí ấy nói lên sự xa cách ấy. "Ngắm cảnh" mà lại:"Nhớ thương" đâu phải chỉ thưởng thức trăng ("ngắm" mà "nhớ"). Trong nỗi nhớ có cả tình thương, tình thương chính là nhịp cầu nối liền khoảng cách không gian ấy. Ánh trăng thu đã chứa đựng hai hình ảnh "Bác" và "Nhi đồng" vốn xa nhau về không gian gần nhau trong bình diện tình cảm "Nhớ thương".

Trung thu 1952 Bác không nói đến trăng. Bác nói nhiều đến lòng tin và hy vọng đối với các cháu trong tương lai và mong ước của Bác trong hiện tại: "Mong các cháu cố gắng, Thi đua học và hành. Tuổi nhỏ làm việc nhỏ. Tùy theo sức của mình" (Sđd.Tr.65)

Qua lời tâm tình của Bác chúng ta cũng thấy được sự lớn mạnh và diện mạo của cuộc kháng chiến vào giai đoạn cuối này. Một điều kỳ lạ, trong thơ Bác thiếu nhi cũng lớn dần, trưởng thành lên cùng với cách mạng và kháng chiến. Nếu không có sự quan tâm đặc biệt một lòng yêu thương vô bờ bến với thiếu nhi thì khó có thể nhận biết, phát hiện sự trưởng thành này:
            "Trẻ em như búp trên cành
            Biết ăn, biết ngủ học hành là ngoan"
                       
("Kêu gọi thiếu nhi" - 21.9.1941)

Các cháu đã nhận thức được nhiệm vụ của mình:
            "Cùng nhau đánh đuổi Nhật-Tây
            Anh em ta mới có ngày vinh hoa"
                        ("Trẻ chăn trâu" - 21.11.1942)

Và đã có những hành động anh dũng:
            "Cháu có can đảm
            Giơ súng dọa Tây
            Bắt nó hàng ngay
            Lấy được súng nó"
                       
("Khen tặng hai cháu liên lạc trong bộ đội chiến khu II - 8.1947)

Sau 8 năm kháng chiến các cháu đã "khôn lớn" ("khôn" về trí tuệ tư tưởng, nhận thức, "lớn" về thể chất) để có thể hiểu được những điều thần thánh, vĩ đại của kháng chiến và cùng chia sẻ với Bác. Lời thơ như là lời tâm sự của người bạn đối với người bạn về những điều cùng quan tâm:
            "Thu này hơn những thu qua
            Kháng chiến thắng lợi gấp ba bốn lần"

Hòa bình lập lại, nhưng nửa nước còn đau thương. Lòng Bác luôn luôn hướng về đồng bào Miền Nam, về các cháu thiếu nhi Miền Nam. Thơ Bác viết cho thiếu nhi bao giờ cũng nồng ấm chứa chan: "Cháu yêu" "Nhớ thương" - "Bác hôn các cháu"... nhưng với thiếu nhi Miền Nam sắc thái tình cảm ở dạng thức, biểu đạt cao nhất: "Nhớ thương các cháu vô cùng" và lòng tin, hy vọng lớn hơn: "Mong sao mỗi cháu là một anh hùng thiếu nhi". Bởi vì trong giai đoạn rực lửa hơn, anh hùng hơn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; thiếu nhi cũng vươn lên, lớn hơn xứng đáng với kích thước tầm cỡ của dân tộc.

Hồ Chí Minh là một nhà thơ của thiếu nhi và Bác không chỉ là một nhà thơ lớn. Bởi vì cuộc đời của Người đã là một bài thơ bài thơ lớn nhất trong tất cả các cuộc đời. Sau khi Bác từ trần có cả một vườn thơ khóc Bác với những cung bậc khác nhau, quy mô khác nhau của nhiều lứa tuổi, nhiều thế hệ. Nhưng cảm động và thiết tha nhất là thơ khóc Bác của thiếu nhi. Thiếu nhi có thơ khóc Bác khá sớm: "Cháu thề phấn đấu suốt đời" (Trần Đăng Khoa - 4.9.1969):
            "Cháu buốt ở tim này
            Chỗ đeo tang suốt đêm ngày Bác ơi
            Cháu không nói được nên lời
            Cháu ngồi, cháu khóc đất trời đổ mưa"
                       
("Cháu thề phấn đấu suốt đời" - Trần Đăng Khoa - "Hành quân theo đường Bác" - Nxb.QĐND 1980 - Tr.117).

Chủ tịch Hồ Chí Minh trường sinh cùng lịch sử: "Đối với chúng ta Hồ Chủ tịch là một người không bao giờ chết. Vì rằng: Đối với mọi người có ý thức về lẽ sống. Tên tuổi của Người sẽ luôn luôn sống mãi trong lịch sử sống còn và vinh quang của nước nhà, trong lịch sử tiến bộ của loài người. Vì đời của Người là một sự SỐNG vĩ đại. Vì sự nghiệp của Người là sự nghiệp của sự SỐNG, là sự nghiệp bảo vệ sự SỐNG, bồi dưỡng sự SỐNG, làm cho sự SỐNG có ý nghĩa hơn, ĐẸP hơn..." ("Chúng ta nhớ mãi..." - Đặng Thai Mai - Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam -Báo "Văn Nghệ" số 308 ngày 10.9.1969 - Tr.13).

Tên Người đã thành tên thời đại, tên đất nước. Người đến với tuổi nhỏ, với thiếu nhi bằng tình thương lớn, mênh mông như biển cả. Người trở thành nguồn thơ lớn của thiếu nhi, là nguồn thơ không cạn của thiếu nhi cũng là lẽ thường tình.

Thị xã Quảng Ngãi tháng 2-1999
V.V.K
(127/09-99)


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.