Nhà văn G.G.Marquez - Ảnh: internet
Được lấy cảm hứng từ một lần đi tàu hỏa cùng mẹ quay về Aracataca để bán ngôi nhà cũ của ông ngoại, địa danh Macondo xuất hiện bất ngờ trước mắt tác giả khi nhìn thấy tên của một đồn điền chuối. Trong quá trình tìm hiểu sau đó, Marquez biết được rằng Macondo có thể bắt nguồn từ tên gọi Makondos của một bộ tộc du mục ở Tanganyika, hoặc cũng có thể là tên của một loài cây vùng nhiệt đới khá giống với cây gạo. Tuy nhiên, sở dĩ vùng đất Macondo đã ám ảnh xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của Marquez, không phải bởi sự ngẫu nhiên khi tìm thấy một địa danh, mà bởi tên gọi này đã phù hợp với dự phóng sáng tạo của người cầm bút. Bởi đó là một tên gọi: “khiến tôi chú ý ngay từ những chuyến đi đầu tiên với ông ngoại, nhưng chỉ khi trở thành người lớn, tôi mới phát hiện rằng mình thích nó bởi nó đọc lên nghe rất nên thơ” [8,35]. Như vậy, vùng đất Macondo trong những sáng tác của Marquez không mang cảm hứng từ một loài cây nhiệt đới, một tộc người du mục, hoặc một đồn điền chuối có thật ở Aracataca, mà là địa danh nên thơ của một giấc mơ. Lựa chọn hình tượng có tính chất phiếm chỉ đó, Marquez đã có dụng ý để cho Macondo: “luôn luôn tồn tại một không gian huyền thoại” [1,326]. Tính chất huyền thoại của Macondo không chỉ tạo ra không gian nghệ thuật, giọng điệu trữ tình nên thơ trong tác phẩm, mà quan trọng hơn, đó là dụng ý xây dựng một hình tượng “mẫu gốc” cho mọi địa danh, mọi xứ sở ở Mỹ Latinh. Macondo chính vì thế là một địa danh thuộc về huyền thoại, một ngôi làng đã biến mất cùng sự tuyệt diệt của những dòng họ trăm năm cô đơn bởi tội lỗi loạn luân bị nguyền rủa. Chính vì tầm ý nghĩa quan trọng trên, hình tượng Macondo đã xuất hiện ít nhất trong năm tác phẩm của Marquez, mà đó đa phần lại là những tác phẩm quan trọng nhất sự nghiệp sáng tác của ông. Trong Trăm năm cô đơn, hình tượng Macondo không đơn thuần chỉ là không gian diễn ra câu chuyện, mà hình tượng này còn được đặt trong chiều kích sử tính của thời gian huyền ảo, tạo nên một dòng chảy thời gian biên niên, được đánh mốc bởi bảy thế hệ cô đơn của dòng họ Buendía. Bảy thế hệ dòng họ Buendía lại biểu trưng cho sự phát triển và tuyệt diệt của loài người, nên Macondo là một thế giới thu nhỏ, đặt trong tiến trình lịch sử trải qua bốn chặng chính là khai lập - phát triển - thịnh vượng và suy tàn, nói cách khác là từ “lịch sử hồng hoang của con người cho đến thời hậu hiện đại” [2,221]. Macondo chính vì thế là hình tượng mang tính chất cảnh tỉnh nhân loại, cùng nền văn minh cô đơn “không có dịp may lần thứ hai để trở lại làm người trên mặt đất này” [Mọi trích dẫn trong tác phẩm từ đây về sau chúng tôi chọn bản dịch của Nguyễn Trung Đức, Phạm Đình Lợi, Nguyễn Quốc Dũng, Nxb Văn học, in năm 2003 tại Hà Nội], [trang 483]. Quá trình khai lập ra Macondo của những cư dân đầu tiên, mà vợ chồng José Arcadio Buendía và Úrsula Iguarán chính là những người dẫn đầu, luôn thấm đẫm truyền thống văn hóa Mỹ Latinh. Đầu tiên là câu chuyện ly hương để tìm ra Macondo đã được tác giả xây dựng đầy tính chất huyền thoại. Lý do trực tiếp dẫn đến sự ly hương của hai vợ chồng nhà Buendía là bởi cái chết của Prudencio Aguilar trong một cuộc chọi gà. Chỉ một câu nói lỡm khi gà mình thua cuộc: “Tao mừng cho mày… để xem xem cuối cùng con gà ấy có làm ơn cho vợ mày không nào” [trang 45], Prudencio Aguilar đã phải trả giá bằng mạng sống của chính mình, khi José Arcadio Buendía thách đấu và đã ném cây lao bách chiến bách thắng của dòng họ mình xuyên qua cổ của nạn nhân. Nhưng sau đó, ám ảnh hối lỗi cùng sự xuất hiện đầy bi thảm của hồn ma P.Aguilar trong ngôi nhà của dòng họ Buendía, hai vợ chồng trẻ đã quyết định ra đi tìm một vùng đất mới, nhằm làm thanh thản vong hồn người đã chết, và cũng để làm nguôi ngoai chính sự dằn vặt trong lòng mình. Như vậy, cuộc hành trình khám phá ra thế giới mới là một hành trình nhằm trốn chạy khỏi ám ảnh tội lỗi vì đã giết đồng loại. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa cho hành trình đó lại là ám thị về tội loạn luân. Hai vợ chồng José Arcadio Buendía và Úrsula Iguarán đều lấy nhau với địa vị là những người bà con gần gũi về huyết thống, trong một dòng họ có truyền thống loạn luân. Chính vì vậy, sự cảnh báo của tổ tiên về hậu quả sẽ đẻ ra những đứa con kì đà, những đứa con có cái đuôi lợn luôn ám ảnh hai vợ chồng trẻ, khiến Úrsula luôn đeo chiếc quần trinh tiết mỗi khi gần gũi chồng. Chính cái quần này làm người ta nghi ngờ bản năng đàn ông của José A.Buendía, và cơn giận giữ đó đã bùng phát không thể nào cưỡng nổi khi P.Aguilar vô tình nói lỡm. Ngay trong đêm mà cả làng khóc thương cho cái chết bi thảm của P.Aguilar, José A.Buendía đã quyết tâm xé tan chiếc quần trinh tiết, và cả hai vợ chồng ái ân trong hoan lạc cho đến sáng. Như vậy, nguyên nhân sâu xa của cuộc ly hương đến Macondo, có nguồn gốc từ tội lỗi liên quan đến sự thưởng thức “trái cấm” bị nguyền rủa. Trong đó, “Adam” José A.Buendía và “Eva” Úrsula Iguarán đã bất chấp lời răn dạy của “Thượng đế” tổ tông, sự cấm kỵ của dòng họ, cái chết của đồng loại, nhằm kiếm tìm ý nghĩa và thụ hưởng hạnh phúc của tình yêu (và tình dục) một cách quyết liệt nhất, không khoan nhượng và vượt qua mọi rào cản của những thiết chế. Câu chuyện về tội lỗi của José A.Buendía và Úrsula Iguarán như vậy là một câu chuyện được lấy cảm hứng từ Kinh thánh, nhưng được viết theo tinh thần hậu hiện đại, nơi chính con người trừng phạt con người, chứ không phải là thượng đế. Và ngay khi đến với nhau trong hoan lạc, José Arcadio Buendía hoàn toàn ý thức được hành vi cũng như hậu quả của việc mình làm, chứ không đơn thuần hành động ngây thơ dưới sự xui khiến của con rắn độc như Adam và Eva. Con người hậu hiện đại đã chấp nhận sống với hậu quả, trong một “thời đại mà sự ngây thơ đã bị đánh mất” (U.Eco): “Nếu mình đẻ ra kì đà thì chúng mình sẽ nuôi kì đà” [trang 46]. Chủ thể làng Macondo trong giai đoạn khai lập là lão trượng José Arcadio Buendía, người điều hành và cũng là người khai phá ra vùng đất này. Lão trượng José Arcadio Buendía đã điều hành Macondo trong sự công bằng của một thị tộc công xã nguyên thủy, và chính đạo đức lẫn sức mạnh thể chất đã đem lại vị trí thống ngự cho ông, hệt như một tù trưởng thông thái và anh minh. Macondo do đó được tạo dựng nên với tư cách là một “tân thế giới” thu nhỏ, một vùng đất không có người chết và không ai quá ba mươi tuổi, được đối xử công bằng và tự do đậm chất văn hóa châu Mỹ. Cách xây dựng hình tượng như trên không khỏi làm chúng ta nhớ đến quá trình Cristoforo Colombo tìm ra châu Mỹ - một châu lục mở ra thế giới mới với biết bao kì vọng về một xứ sở giàu có, tự do và tươi trẻ. Sự đam mê khoa học của lão trượng José Arcadio Buendía cùng cư dân ở Macondo phản ánh khát khao hiểu biết, nhưng cũng đồng thời vạch ra sự lạc hậu của họ so với phần còn lại của thế giới. Thông qua những người Digan, các “phát minh vĩ đại” như đá nam châm, hàm răng giả, máy chụp ảnh, nước đá, kính viễn vọng… đã được người dân Macondo hào hứng đón nhận trong sợ hãi và kính phục. Những cảm xúc hệt như người da đỏ lần đầu tiên tiếp cận với nền văn minh châu Âu, mà tiêu biểu là sự nhầm lẫn những kẻ thực dân Tây Ban Nha là thần Viracocha trở về. Tuy nhiên, quá trình tìm ra Macondo là một sự ngẫu nhiên không mong muốn. José Arcadio Buendía trên hành trình đi tìm một vùng đất hứa có vị trí thuận lợi, nhằm thông thương với toàn thế giới, nhưng đoàn người đã bị chặn lại bởi bốn bề là đầm lầy, rừng và biển. Trước ý định muốn đi tiếp để tìm ra vùng đất hứa, Úrsula Iguarán với sự quyết liệt không khoan nhượng của mình đã giữ mọi người ở lại Macondo: “Nếu cần thiết tôi phải chết để các người ở lại đây, tôi sẽ chết” [trang 37]. Như vậy, quá trình này không khỏi làm chúng ta liên hệ đến sự ngẫu nhiên tìm ra châu Mỹ của Cristoforo Colombo, khi chuyến đi của ông là nhằm tìm một con đường mới đến Ấn Độ: “Các hoàng tử - những tín đồ Đạo Cơ Đốc, tôn thờ và mong muốn mở rộng niềm tin Công giáo linh thiêng, là những người chống lại giáo lý Mahomet cũng như mọi hình thức sùng bái thần tượng và dị giáo - đã cử tôi, Christopher Columbus, đi đến các miền đất của Ấn Độ” (trích nhật ký C.Columbus về chuyến đi năm 1492) [6,16]. Qua đó, khát vọng đích thực đằng sau quá trình ngụ cư ở Macondo, cũng như quá trình xâm chiến châu Mỹ của người phương Tây, xét trên phương diện xã hội học, đó là tham vọng mở rộng thị trường, tìm kiếm tài nguyên và phát triển kinh tế thông thương ra tầm thế giới. Trên nền của sự soi chiếu các chi tiết nghệ thuật với những sự kiện, điển tích có thật trong lịch sử hoặc trong Kinh thánh, Macondo đã được tác giả xây dựng phát triển không ngừng trên cả phương diện chính trị và kinh tế. Trên phương diện chính trị, văn hóa, Macondo đã bắt đầu xây dựng những thiết chế nhà nước đầu tiên (tuy còn lỏng lẻo), với sự xuất hiện của quan thanh tra Moscote. Các nhà thờ với cha xứ cũng đến cùng lúc với sự xuất hiện của chính quyền, bởi quá trình khai lập và xây dựng hệ thống chính trị ở châu Mỹ bao giờ cũng gắn song hành giữa hai quyền lực: quyền lực thần quyền của đạo Cơ đốc (nhằm chống lại các tín ngưỡng bản địa và các thầy phù thủy của người da đỏ), và quyền lực bạo lực thực dân của các đế quốc mà chủ yếu là Tây Ban Nha (nhằm chống lại các thủ lĩnh bộ lạc da đỏ). Lật lại lịch sử, trong trận chiến Cajamarca - bước ngoặt đánh dấu chiến thắng quyết định của thực dân Tây Ban Nha với đế quốc Inca, vai trò của thần quyền Cơ đốc và vương quyền thực dân cũng đã gắn bó với nhau hết sức mật thiết. Năm 1532, tại thành phố cao nguyên Cajamarca (thuộc Peru ngày nay), dưới sự lãnh đạo của Francisco Pizarro, 168 lính Tây Ban Nha của vua Charles Đệ nhất với sự vũ trang gươm thép, súng, giáp trụ và ngựa (những thứ người da đỏ chưa có) đã đánh tan 80.000 chiến binh Inca và bắt sống vua Atahualpa của người da đỏ. Trong trận chiến này, người ra lệnh tấn công không phải là F.Pizarro, mà là đức cha Vicente de Valverde. Khi vua Atahualpa quẳng quyển Kinh thánh xuống đất, đức cha Valverde đã nhân danh Chúa nhằm ra lệnh cho quân đội: “Đến đây! Những người Công giáo, hãy đến đây! Hãy tấn công bọn kẻ thù chó má này, kẻ đã dám cự tuyệt những gì là của Chúa… Hãy tiến lên trừng trị nó đi, ta sẽ tha tội cho các con” [3,78]. Sự kiện xuất hiện căn bệnh mất trí nhớ trong ngôi làng Macondo thời kì này, cũng không khỏi làm cho chúng ta liên tưởng đến lịch sử khai phá châu Mỹ của người châu Âu. Các đế quốc thực dân đã chinh phục những dân tộc da đỏ không chỉ bằng sự mua chuộc, gươm, súng, mà đặc biệt là bằng vi trùng, biểu hiện thông qua những căn bệnh dịch mà người da đỏ chưa bao giờ nếm trải. Người châu Âu nhờ có kháng thể từ trước nên sẽ có sức đề kháng mạnh hơn, còn người da đỏ hầu như bị tuyệt diệt trong những trận dịch lây lan một cách nhanh chóng. “Khắp nơi ở châu Mỹ, các bệnh dịch do người châu Âu mang tới… giết chết 95% dân số người châu Mỹ bản địa tiền Columbus” [3,85]. Căn bệnh dịch mất trí nhớ trong làng Macondo thời kì này cũng được đem đến bởi một nhân vật “ngoại lai”, đó là sự xuất hiện của Rebecca, cô con gái nuôi kì lại với nỗi đam mê ăn đất. Từ mất ngủ cho đến mất trí nhớ, bệnh dịch đã phát tán khắp Macondo và suýt tàn phá ngôi làng nhỏ này khi mọi người dần mất hết lý trí, qua đó, đánh mất bản sắc văn hóa bản địa. Nền văn hóa Mỹ Latinh vẫn thường được mệnh danh là nền “văn hóa lai”, với sự xen lẫn, xung đột và kết hợp giữa văn hóa người da đen có nguồn gốc nô lệ, người da đỏ bản địa, người da trắng có nguồn gốc thực dân, người da vàng di cư và hệ thống người lai tạp giữa các chủng người đến trước. Yếu tố “ngoại lai” và “hỗn tạp” luôn là xu hướng thống ngự bản sắc văn hóa Mỹ Latinh. Người cứu thoát Macondo cũng là một nhân vật đến từ bên ngoài, đó là sự tái xuất hiện của người Digan thông thái Melquíades. Như vậy, khả năng dùng dịch bệnh như một loại vũ khí, cũng như khả năng dùng khoa học để chữa lành những căn bệnh dịch chính là thứ vũ khí sinh học tối tân nhất của người châu Âu trong quá trình xâm lược và thống ngự châu Mỹ. Hình tượng một con tàu mục nát nằm bên bờ biển, khi José Arcadio Buendía cố tìm ra con đường thông thương Macondo với thế giới, cũng làm ta liên tưởng đến những đoạn viết của nhà thám hiểm Stephens, người đã tìm ra nền văn minh Maya cổ trên đất Nam Mỹ: “Một thành phố đổ nát. Nó nằm trước chúng ta như một con thuyền mục nát nằm giữa đại dương, cột buồm đã gãy, tên thuyền đã mờ, tất cả thủy thủ đoàn đã bỏ mạng, chẳng còn một ai cho chúng ta biết nó từ đâu tới, chủ nhân của nó là ai… và vì sao nó bị tàn phá” [4,176]. Sự xuất hiện những đoàn người Digan cũng chính là biểu trưng cho chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Người Digan đến nhằm mua bán và trao đổi những vật phẩm hằng ngày, và đa phần là những trò lừa bịp với những sản vật ngang giá của địa phương. Cái chết đầu tiên trên Macondo lại là cái chết của Melquíades, đấng tiên tri và cứu thế của Macondo. Báo hiệu cho một điềm gở diễn ra trong tương lai không bao giờ có thể né tránh, một khi Macondo phát triển theo hướng tư bản hóa. Những cuộc gian lận bầu cử, đàn áp dân chúng bắt đầu diễn ra, kèm theo sự xuất hiện của những công ty nhập khẩu và các sản phẩm đa quốc gia: “giường tủ sản xuất tại Viên, gương kính sản xuất ở xứ Bohemia, bát đĩa do công ty Tây Ấn sản xuất, khăn phủ bàn Hà Lan…” [trang 88]. Tiêu biểu cho những điều kiện phát triển của tư bản quốc tế lúc này là sự xuất hiện của nhân vật Pietro Crespi - chuyên gia người Italia trong việc lắp ráp, chỉnh sửa và dạy đàn Piano. Đây là giai đoạn thanh bình nhất của Macondo, cho dù sự phát triển về mặt kinh tế là chỉ mới khơi mào. Sự kiện quan trọng nhất trong giai đoạn này, đó là việc Úrsula tình cờ tìm ra con đường thông thương Macondo với thế giới, khi đang lần theo dấu chân của đứa con trai José Arcadio. Từ đây, Macondo không còn là một ốc đảo khép kín, mà với việc xuất hiện của máy móc và bưu kiện, ngôi làng nhỏ đã bắt đầu kết nối vào hệ thống kinh tế thế giới. Chủ thể của giai đoạn này đó là Aureliano Buendía, từ một thanh niên u sầu, chăm chỉ làm những con cá vàng trong xưởng kim hoàn, cho đến một chàng trai tuyệt vọng vì mất vợ, và cuối cùng là vị đại tá tổng tư lệnh quân khởi nghĩa - người đã phát động 32 cuộc nội chiến để rồi thất bại hoàn toàn với hiệp ước Neerlandia, chấm dứt cuộc chiến tranh Một ngàn ngày. Từ bước ngoặt này, Macondo chính thức bước sang thời kì mới đầy thăng trầm và đẫm máu. Điểm kết thúc và hủy diệt của dòng họ Buendía cũng cùng thời điểm với sự biến mất của Macondo. Sau một cơn mưa kéo dài bốn năm, mười một tháng và hai ngày, và tiếp đó là suốt mười năm hạn hán không có lấy một giọt nước, Macondo đã bị nhấn chìm và xóa sạch trong một cơn cuồng phong bão táp của số phận. Lật lại lịch sử và văn hóa châu Mỹ, đây là một quá trình hủy diệt có tính chất định mệnh, liên quan đến sự phát triển và diệt vong của những nền văn minh bản địa. Khi một xã hội phát triển lên đến thời hoàng kim, với sự tăng vọt về mật độ dân số, thì môi trường đã bị tàn phá đến mức không thể chịu đựng nổi. Do quá trình chặt cây và tàn phá rừng, dẫn đến mất nguồn nước ngầm, từ đó hạn hán, thiếu nước xảy ra triền miên và những cư dân bắt đầu ăn thịt lẫn nhau cũng như gây ra những cuộc chiến đẫm máu. Sự biến mất của nền văn minh Maya rõ ràng là một minh chứng đi trước của Macondo. Trong gần mười năm, từ 810 cho đến 820, sau đó là gần sáu năm trong thập niên 910, đế quốc Maya đã hứng chịu những cơn hạn hán đến kiệt quệ. Theo Richardson Gill, đây cũng là những điểm mốc đánh dấu sự sụp đổ dần nền văn minh rực rỡ của người da đỏ Maya. Một số nền văn minh cổ xưa khác ở châu Mỹ như đế chế Akkadian (2170 tr.CN) tại Trung Mỹ, nền văn minh Moche IV (600 s.CN) tại bờ biển Peru, nền văn minh Tiwanaku tại vùng núi Andes (1100 s.CN), nền văn minh của người Anasazi tại Bắc Mỹ (700 s.CN)… đều bị sụp đổ trong những kì hạn hán kinh niên. Theo Jared Diamond, có năm nguyên nhân cơ bản khiến những nền văn minh cổ đại biến mất, bao gồm: bùng nổ dân số, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, chiến tranh, hạn hán, nạn quan liêu độc tài. Trong đó, chiến tranh và sự xâm lược của thế giới bên ngoài không đóng vai trò quyết định đến sự suy tàn của những nền văn minh cổ, mà chính sự tàn phá môi trường, dẫn đến hậu quả xảy ra thiên tai dữ dội mới chính là nguyên nhân cơ bản nhất. J.Diamond viết: “Nhưng trên tất cả là yếu tố thay đổi khí hậu. Đợt hạn hán xảy ra tại thời điểm Maya cổ điển bị sụp đổ không phải là đợt hạn hán đầu tiên mà người Maya phải hứng chịu, nhưng nó là đợt hạn hán khắc nghiệt nhất” [4,195]. Có thể nhận định rằng, nếu “nỗi cô đơn” là chủ đề lớn nhất mà G.G.Marquez dành cả cuộc đời để theo đuổi, thì hình tượng trung tâm nhất, có tính xuyên suốt các tác phẩm của nhà văn người Colombia lại không phải là một nhân vật cụ thể, mà chính là hình tượng về vùng đất Macondo. Qua sự lựa chọn này, G.G.Marquez đã có dụng ý xây dựng một hình tượng đủ sức đảm trách những vai trò lớn lao. Macondo qua đó trở thành không gian và khả tính của một nền văn hóa trong cả hai chiều kích: chiều rộng của không gian vùng Caribbe và chiều dài sử tính của văn hóa Mỹ Latinh. Như vậy, hình tượng Macondo được xây dựng dựa trên sự giao cắt của huyền thoại với hiện thực, là hình tượng được tái hiện trong nhiều tác phẩm khác nhau, mà chủ yếu được phác họa trong Trăm năm cô đơn (Cien anos de soledad - 1967), tiểu thuyết lớn nhất trong sự nghiệp của G.G.Marquez và cũng là một trong những cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất mọi thời đại. P.T.A (259/9-10) |
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.