Hình ảnh trái tim trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

10:24 09/01/2009
PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.

Đọc lại những bài thơ của Mỹ Dạ, có thể thấy, một số hình ảnh đời thường xuất hiện nhiều trong thơ như một nỗi ám ảnh, trở thành biểu tượng nghệ thuật như:  giấc mơ, trái tim, biển cả… Nhưng có lẽ không ở đâu hình ảnh trái tim được nhắc nhiều như trong thơ chị. Nữ thi sĩ này có tới 44 bài thơ với 82 lần nhắc đến hình ảnh trái tim (Trái tim sinh nở, Trái tim buốt nhức, Nói với trái tim, Khoảng thời gian xanh biếc, Tặng nỗi buồn riêng…). Đó vừa là trái tim của một cái tôi trữ tình “Hạnh phúc thì mỏng đớn đau thì dày”, vừa là trái tim của nhiều đối tượng trữ tình khác nhau: trái tim của một người mẹ, trái tim của một người bạn, trái tim của một người đồng chí, trái tim của những người lính Mỹ và cả trái tim của những người mẹ Mỹ có con hi sinh trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, đó còn là trái tim của mùa xuân, trái tim của đất nước…

Trong nếp nghĩ quen thuộc của mọi người, hình ảnh trái tim luôn là tiếng nói thổn thức của tình yêu với mọi sắc thái của nó. Biểu tượng trái tim dành cho tình yêu đã có từ thời tiền sử và được nhìn thấy trong các bức hoạ hang động thời kỳ đồ đá ở Tây Ban Nha, hay trong các quân bài ở châu Âu vào thế kỷ XV. Hình ảnh trái tim cũng đã từng xuất hiện nhiều trong thơ ca Việt hiện đại. Nữ thi sĩ  Xuân Quỳnh khi bộc lộ tình yêu thiết tha và mãnh liệt với người mình yêu cũng đã từng đưa hình ảnh trái tim mình ra để thề nguyền:
Em  trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi
                                                (Tự hát)
Hay:
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào đập chẳng vì anh
                                                (Chỉ có sóng và em)

Nhưng trong thơ Mỹ Dạ, hình ảnh trái tim còn mang một ý nghĩa khác. Nó là một hình ảnh hoán dụ tượng trưng cho số phận, cuộc đời không bình yên của cái tôi trữ tình. Trái tim thấm đẫm nỗi đau nhân tình của Lâm Thị Mỹ Dạ được biểu hiện qua những trạng huống cảm xúc phức tạp:
Ôi trái tim
 Sao em lại mang dáng lưỡi cày
 Để suốt đời không bao giờ yên ổn
 Để suốt
đời cày lên
 Đớn đau và hạnh phúc

                                     (Nói với trái tim).
Bài thơ như một lời dự báo cho cuộc đời không mấy bình yên của chị. Là một người phụ nữ làm thơ đa mang và đa cảm, trái tim đời và trái tim thơ của chị luôn đập lên những nhịp đập thổn thức, bồi hồi và cả nhói đau. Trong thơ Mỹ Dạ, hình ảnh trái tim thường gắn liền với số phận người phụ nữ đa đoan, bất hạnh. Dù là trái tim của đối tượng trữ tình hay trái tim của cái tôi trữ tình thì đó đều là những trái tim biết lắng nghe nhịp thở của đất, biết đón nhận những vang động của đời và biết vượt lên chính mình để trẻ mãi với thời gian và tuổi tác. Hãy lắng nghe Mỹ Dạ nói về trái tim người mẹ:
Trái tim mẹ tưởng héo rồi lại tươi
 hay trái tim của chính mình:
Cô đơn thành thói quen mẹ biết gì đau khổ
Bao  vết thương trái tim sẹo chai lì
                                                 (Viết về câu trả lời của con)
Dẫu không mấy bình yên và thường chịu nhiều cay đắng, nhưng có những lúc trái tim ấy vẫn rung lên những nhịp đập thổn thức, bồi hồi trước tình yêu đôi lứa:
Trái tim có mấy phần buồn?
Mấy phần vui sướng?nhớ thương mấy phần?
Phần yêu em gửi cho anh
Còn phần hi vọng em dành cho con
                                                        (Trái tim sinh nở)
Câu thơ của Mỹ Dạ gợi nhắc người đọc nhớ đến những lời thơ cũng viết về hình ảnh trái tim mình của nhà thơ Tố Hữu:
Quả tim anh chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ và phần để em yêu

Vẫn là hình ảnh trái tim đấy thôi nhưng trái tim của mỗi thi nhân lại mang những sắc thái tình cảm khác nhau. Tố Hữu có cái phần quyết liệt, dứt khoát, thẳng thắn của đàn ông, nhưng trong trái tim của một người làm cách mạng cũng không chỉ có lí tưởng. Trái tim ấy còn ngân lên những nhịp đập cho tình yêu và cho cả thơ ca. Còn Mỹ Dạ có cái phần dịu dàng, nữ tính, có chiều sâu và đầy suy tư, trăn trở nhưng lại rất chân thành, tha thiết.
Điều đáng trân trọng là qua bao nhiêu cô đơn và đớn đau, người thơ ấy vẫn giữ lại cho mình một trái tim dịu dàng, trong suốt và vô cùng nhân hậu. Chị đã ôm hết yêu thương vào lòng mình mà vẫn thấy chưa đủ, chưa đầy:
Trái tim tôi nặng đầy
Yêu thương còn chưa hết
 
                                    (Ngước nhìn trời cao)
Chính vì thế, cái tôi trong thơ Mỹ Dạ chưa bao giờ lên tiếng ruồng rẫy, chối bỏ chính tâm hồn mình với mong muốn kiếm tìm một lối thoát bình yên. Cái tôi ấy, ngược lại, tỏ ra rất trân trọng, yêu thương và chấp nhận:
Nhưng nếu được sống một nghìn cuộc đời
Với một trái tim như thế
Buốt nhức vì giận hờn
vì yêu
vì nhớ
Thì tôi chẳng bao giờ đổi
Trái tim buốt nhức này
                              để lấy một trái tim bình yên khác
                                                                 (Trái tim buốt nhức)
 Ý thức rất rõ điều đó nên chị đã nói với trái tim mình:
Trái tim đừng lúc nào tĩnh vật
Mà thiết tha đời như ngọn cây
                                                  (Đêm như ngân)

Không chỉ yêu đời, Mỹ Dạ còn mang trong lòng mình một trái tim tha thiết yêu người, tình yêu thương con người của chị không chỉ thể hiện qua tiếng nói của trái tim mình, mà hơn thế nữa, trái tim nhân hậu của chị đã soi chiếu và nhìn thấu cả bao nhiêu trái tim khác: từ trái tim “sâu thẳm”của một người nghệ sỹ: “Nhớ người nhạc sỹ đã xa/ Trái tim anh sâu thẳm thế” (Nhớ Xêđôi với ca khúc “Chiều Matxcơva”) đến trái tim “kiên tâm” của người thợ tàu: “Họ lặng thầm thách thức thời gian/ Bằng chính trái tim kiên tâm người thợ” (Con tàu vét), trái tim “quen chờ đợi” của người lính Việt: “Tôi mang trong lòng làng quê có bóng em/ Và trái tim quen chờ đợi” (Anh thương binh kể chuyện). Còn đây là hình ảnh trái tim người lính Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt : “Xin hãy giở dưới lần da chó sói/ Trái tim nai thắm đỏ thơ ngây” (Khuôn mặt ẩn kín)…

Thấu hiểu, đồng cảm và sẻ chia đó là điều thường trực trong trái tim Mỹ Dạ. Mỹ Dạ không chỉ nhìn con người bằng cái vẻ hào nhoáng bên ngoài mà chị thường chú ý đến thế giới nội tâm, tâm hồn của họ với mong muốn thấu hiểu đến tận cùng những nhịp đập của trái tim người. Đó cũng chính là lí do tạo nên đặc trưng tư duy hướng nội trong thơ chị.

Mượn hình ảnh trái tim để nói lên nỗi lòng mình là một điều mà nhiều nhà thơ đã từng làm, song ít người biết khai thác nó đến cùng như Mỹ Dạ. Mọi buồn vui, đau khổ đều được chị gửi gắm qua hình ảnh trái tim. Nỗi đau đời và yêu đời cũng được đánh thức từ trái tim ấy. Đó là một trái tim luôn mang trong mình những nhịp đập cho mình, cho người và cả cho đời. Hình ảnh trái tim quả đã làm cho thơ Mỹ Dạ trở nên hấp dẫn hơn, sâu sắc hơn và nhân ái hơn. Để có được những hình ảnh về trái tim ấy trong thơ, chị đã phải đánh đổi cả một trái tim nhân hậu ở ngoài đời. Trong cuộc sống ngày càng xô bồ, bon chen và lắm mưu sinh, thì những vần thơ viết về trái tim của Mỹ Dạ như một lời đánh thức con người cần trở về với những giá trị đích thực của tâm hồn để lắng nghe tiếng lòng mình và tiếng đời đi trong từng tế bào sinh nở. Sự nhạy cảm của con người là điều không thể thiếu trong bất cứ hoàn cảnh sống nào. Có như vậy thì người với người mới ngày càng xích lại gần nhau hơn.  
P.T.T.V

(nguồn: TCSH số 238 - 12 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ THỜI ĐÔN        (Phiếm luận)Đọc Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đến đoạn kết thúc phiên tòa báo ân, báo oán, người hay trắc ẩn thì thấy nhẹ nhõm, người cả nghĩ thì thấy vợ chồng Thúc Sinh- Hoạn Thư thoát nạn mà thán phục sự tế nhị của Nguyễn Du.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sách Phê bình văn học thế kỷ XX tác giả Giăng Ivơ Tađiê có nói tới ba bộ phận phê bình. Phê bình văn học ta hiện nay chủ yếu cũng có ba bộ phận ấy họp thành: phê bình báo chí, phê bình của các nhà văn nhà thơ và phê bình của các nhà phê bình chuyên nghiệp.

  • ĐÀO THÁI TÔNTrong bài Mê tín dị đoan trên chuyên mục Tiếng nói nhà văn (Văn Nghệ số 52 (2032), ngày 26 - 12 - 1988), nhà văn Thạch Quỳ thấy cần phải "phân định cho được văn hóa tâm linh, văn hóa nhân bản, văn hóa tín ngưỡng để phân biệt nó với mê tín dị đoan".

  • NGUYỄN THỊ XUÂN YẾNLà một nội dung mở, tín hiệu thẩm mỹ (THTM) đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm, đặc biệt là các nhà nghiên cứu văn học đã bàn luận khá rộng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHTrong mười hai con giáp, từ lâu, người ta đã nhận thấy chỉ có mười một con là động vật có thật, được nuôi trong gia đình, là gia cầm (như gà - dậu), là gia súc (trâu - ngưu) hoặc động vật hoang dã (như hổ - dần)... Còn con Rồng - Thìn thì hoàn toàn là động vật thần thoại.

  • Vừa qua tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Dịch thuật Giới thiệu Văn học Việt Nam ra thế giới, quy tụ trên một trăm dịch giả trong và ngoài nước đến từ hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau như Pháp, Mỹ, Đông Âu, Trung Quốc... Đây được xem là bước khởi đầu cho việc quảng bá tốt nhất văn học Việt ra thế giới.

  • NGUYỄN THANH HÙNGTiếp nhận văn học thực sự diễn ra dưới ảnh hưởng của đặc điểm cuộc sống trong cộng đồng lý giải tác phẩm. Có được ý nghĩa phong phú của văn bản nghệ thuật là nhờ sự tiếp nhận của các thành viên độc giả tạo ra. Chính những ý nghĩa ấy chứ không phải bản thân văn bản, thậm chí không phải cả dụng ý của tác giả là điểm khởi đầu cho "chiều dài thương lượng" về giá trị của tác phẩm văn học trong lịch sử.

  • HỮU ĐẠTKhi giảng dạy thơ ca của bất cứ nhà thơ nào, ngoài những bài được đưa vào sách giáo khoa việc giới thiệu thêm những bài thơ khác trong sự nghiệp sáng tác của tác giả là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi giới thiệu cần có những cách phân tích và đánh giá đúng đắn mới phát huy được việc mở rộng kiến thức cho học trò. Nếu không sẽ gây ra những tác dụng ngược lại.

  • HOÀNG TẤT THẮNG         (Vì sự trong sáng tiếng Việt)

  • ĐẶNG MẬU TỰU- PHAN THANH BÌNH5 năm hoạt động mỹ thuật sôi nổi, đầy trăn trở và suy nghĩ đã trôi qua, Phân- Chi hội mỹ thuật Thừa Thiên Huế đã có nhiều cơ hội để nhìn lại đánh giá những gì mà mình đã làm được.

  • VŨ ĐỨC PHÚCChữ Hán trong hàng chục thế kỷ là chữ dùng chính thức của quốc gia Việt . Trong các thế kỷ ấy văn thơ chữ Hán khi thì là văn thơ duy nhất, khi thì là bộ phận chủ yếu hoặc quan trọng, không thể thiếu, của lịch sử văn học Việt bên cạnh văn thơ chữ Nôm.

  • PHẠM QUANG TRUNGHội Nhà văn Việt Nam, bên cạnh tính chính trị- xã hội, trước hết là một tổ chức nghề nghiệp. Muốn có sức mạnh, cơ cấu và hoạt động của Hội phải tương thích với đặc thù nghề viết văn.

  • NGUYỄN VĂN HOASuốt những năm phổ thông, do phải kiểm tra hoặc phải thi cử nên bắt buộc tôi phải thuộc các bài thơ có vần trong sách giáo khoa. Trên ba mươi năm rồi tôi vẫn thuộc những bài thơ đó. Mặt khác thời tôi học phổ thông ở vùng Kinh Bắc hiệu sách có rất ít sách thơ bán và lúc đó cũng không có tiền để mua. Nguồn duy nhất là sách giáo khoa.

  • VÕ TẤN CƯỜNGLịch sử văn minh của nhân loại đã trải qua những phát kiến, khám phá vĩ đại về khoa học kỹ thuật và vũ trụ nhưng sự bí ẩn của tâm linh con người thì vẫn luôn là thách thức chưa thể giải mã.

  • Mối quan hệ của Chủ nghĩa Siêu thực với hội họa vẫn là một câu hỏi chưa được sáng tỏ, vấn đề khó khăn này đã được các nhà lịch sử mỹ thuật hé mở hơn khi chú ý ở khía cạnh hình tượng xảy ra trong các giấc mơ và coi đó là một hành vi đặc biệt của “phong cách” nghệ thuật hiện đại.

  • Cách đây vài hôm, tôi nói chuyện với một vị nữ tiến sỹ ở Viện nghiên cứu văn hoá nghệ thuật. Bà là một trưởng phòng nghiên cứu có thâm niên, rất thông thái về văn hoá. Trong lúc vui chuyện tôi nói rằng mình có ý định tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ. Bà bảo không thể đặt vấn đề như vậy, vì ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá.

  • TRẦN HUYỀN SÂMVăn học là dòng sông chở đầy dư vị của cuộc đời, mà văn hóa là một trong những yếu tố kết tinh nên hương sắc ấy.

  • LÊ ĐẠTTình không lời xông đất để sang xuânTrước hết xin giải quyết cho xong một vấn đề đã được giải quyết từ rất lâu tại các nhà nước văn hóa phát triển.

  • HỮU ĐẠTMột trong những đặc điểm dễ nhận thấy về phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều chính là tính sáng tạo qua việc dùng từ. Có thể bàn đến nhiều trường hợp khác nhau, trong đó chữ Xuân là một ví dụ khá điển hình.