PHAN ĐÌNH DŨNG
Từ hai cuốn sách: Những người thân trong gia đình của Bác Hồ, và Bác Hồ gặp chị và anh ruột; soi vào những bài thơ của Bác, chúng ta có dịp nghiền ngẫm thêm về những tình cảm riêng/chung của Người.
Bác Hồ thăm các gia đình công nhân Trường Cán bộ công đoàn, năm 1961
Đọc hai cuốn sách này, chúng tôi đặc biệt lưu tâm đến hai câu nói Bác Hồ trả lời bà Nguyễn Thị Thanh, chị ruột, và ông Nguyễn Sinh Khiêm, anh ruột. Có một chuyện riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà chị ruột, anh ruột của Người cùng hết thảy bà con họ Nguyễn Sinh hằng quan tâm. Khi o Thanh hỏi, Bác đã trả lời: “Từ trước tới nay chưa nghĩ tới việc đó và cũng không thể nghĩ đến việc đó được”. Trả lời bác Khiêm, Bác nói: “Cảm ơn anh, em chưa bao giờ dám nghĩ đến việc này. Đến nay thì đã tu, tu trót, quá thì, thì thôi”. Rồi Bác lại tiếp: “Mình không phải là nhà tu hành nhưng vì việc nước phải quên việc nhà”.
Luôn luôn chí công vô tư, xem việc nước cao hơn việc nhà nên vào năm 1949 có người đề nghị tổ chức chúc thọ Hồ Chủ tịch, Người đã trả lời bằng một bài thơ Không đề có câu mở đầu: “Vì nước chưa nên nghĩ đến nhà”. Có điều chữ nhà trong tâm thức của Bác Hồ nói riêng và của con người Việt Nam nói chung xưa nay chiếm một vị trí không nhỏ. Chữ ấy và gắn liền với nó là quan hệ, số phận của những người thân trong gia đình từ lâu đã trở thành một trong nhiều đề tài của khá nhiều bài thơ trong tập Nhật ký trong tù, chẳng hạn như các bài Người bạn tù thổi sáo, Trung thu, Chiều tối, Vợ người bạn tù đến thăm chồng, Gia quyến người bị bắt lính, Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng, Cháu bé trong nhà lao Tân Dương…
Trong tập Ngục trung nhật ký, hình ảnh gia đình có khi chỉ được đề cập thoáng qua một so sánh: Nhà lao mà giống tiểu gia đình (Giam phòng dã thị tiểu gia đình - Quả Đức ngục). Song như vậy cũng đủ cho thấy trên bước đường cách mạng lâu dài, gian khổ có lúc vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc đã từng suy tưởng đến hình ảnh một gia đình nhỏ (tiểu gia đình). Chính suy tưởng này góp phần dẫn dắt nhà thơ Hồ Chí Minh quan tâm đến cuộc sống, quan hệ, số phận của những gia đình tác giả đã từng trải qua hoạn nạn hoặc nhìn thấy suốt chặng lưu đày. Bởi tập thơ vốn thuộc kiểu thơ nhật ký nên những ghi chép trữ tình của tác giả về những hình ảnh gia đình sẽ gắn liền với những gì mắt thấy, tai nghe trong hoàn cảnh một tù nhân. Người tù này bấy giờ lại đang thụ án nơi đất khách nên những hình ảnh trên phần lớn là hình ảnh những con người của đất nước Trung Hoa xa xôi. Với họ, Bác vốn không phải đồng hương nhưng lắm khi lại đồng nạn vậy nên chỗ cảm thông, thấu hiểu là sâu xa, tinh tế. Thử đọc bài đầu tiên trong chùm thơ này, Nạn hữu xuy địch (Người bạn tù thổi sáo):
Bản phiên âm:
Ngục trung hốt thính tư hương khúc,
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu.
Thiên lí quan hà vô hạn cảm,
Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu.
Bản dịch thơ (của Nam Trân):
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu;
Muôn dặm quan hà, khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.
Bác tự nhận với mình họ là “nạn hữu” (tên chữ bài thơ là Nạn hữu xuy địch). Không chỉ là nạn hữu mà còn là tri âm. Có tri âm thì mới thoáng nghe điệu sáo của bạn tù đã kịp nhận ra đó là khúc nhạc nhớ quê - Ngục trung hốt thính tư hương khúc; hơn nữa, lại phân biệt bằng cả thính giác và trái tim nghệ sĩ “đọc” ra trong ấy thanh chuyển thê lương, điệu chuyển sầu để rồi tưởng tượng, cảm thương vô hạn ở nơi xa xôi có người khuê phụ bước lên thêm một tầng lầu (Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu)… Cái nhìn cảm thông, giàu tình yêu thương ấy cũng đã chi phối cách chọn hình ảnh, cách miêu tả giản dị mà xúc động, lắng sâu tình cảnh thương tâm của hai vợ chồng người bạn tù: Anh ở trong song sắt/ Em ở ngoài song sắt/ Gần nhau chỉ tấc gang/ Mà cách nhau trời vực/ Miệng nói chẳng nên lời/ Chỉ còn nhờ khóe mắt/ Chưa nói, lệ tuôn tràn/ Tình cảnh ái ngại thật! (Vợ người bạn tù đến thăm chồng - Nam Trân, Hoàng Trung Thông dịch). Bản dịch giữ được “tín” khi lặp lại hình ảnh “song sắt” (thiết song) đầy ấn tượng của nguyên tác lại khá sáng tạo khi gieo vần rơi vào thuần những thanh trắc (những chữ người viết gạch chân) khiến ý thơ thêm phần day dứt hòa hợp với hình ảnh hai vợ chồng chỉ nói với nhau nhờ khóe mắt bấy giờ đã giàn giụa suối lệ. Rõ ràng đây không phải là cái nhìn bên ngoài, bên trên mà là cái nhìn bên trong của một trái tim lớn của một nghệ sĩ lớn! Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng sinh thời nhận định, đại ý, Hồ Chủ tịch là một người giàu tình cảm và vì giàu tình cảm mà Người mới đi làm cách mạng. Nhiều nhà nghệ sĩ của chúng ta, đặc biệt là các nhà thơ và các nhạc sĩ, thường lưu ý mọi người đến một “gia sản” lớn lao mà Bác để lại cho chúng ta là tình thương. Chính tình thương lớn mới khiến Người luôn luôn hướng về những hoàn cảnh gia đình thương tâm bắt gặp trên đường đi đày. Lắng nghe và thấu hiểu. Đó có khi là cảnh tình oái oăm của một người vợ có chồng trốn lính phải đi tù thay chồng (Gia quyến người bị bắt lính); có khi vì cha đào ngũ mà cả mẹ lẫn con phải chịu giam cầm khi con chỉ vừa nửa tuổi (Cháu bé trong nhà lao Tân Dương); có khi là tâm trạng đau khổ của một người phụ nữ xa lạ vừa mới mất chồng đang khóc gào thảm thiết (Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng) …
Đọc kĩ những bài thơ vừa dẫn ở trên, một mặt, chúng ta thấm thía xúc động trước tình thương bao la, sâu sắc của nhà thơ Hồ Chí Minh, mặt khác, tỉnh táo hơn, chúng ta sẽ dần dần nhận thức được những mong muốn, khát khao của Bác về một gia đình nhỏ bình thường, trọn vẹn. Gia đình ấy dĩ nhiên là một gia đình đầy đủ vợ chồng, con cái sống an bình, khỏe mạnh. Ước mơ ấy nhỏ bé, giản dị như ước mơ của mọi gia đình bình thường trên hành tinh này. Có lẽ đây cũng chính là một trong những điều cho chúng ta thấy Người vừa lớn lao lại rất đỗi bình thường, giản dị.
Cũng bởi bình thường, giản dị nên người tù nhân Hồ Chí Minh đôi khi cũng cảm thấy cô độc khi chiều xuống, lòng hướng về một mái nhà bình yên lửa ấm, hình dung đến một người nội trợ đang chuẩn bị bữa ăn cho gia đình, Chiều tối: “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ/ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không/ Cô em xóm núi xay ngô tối/ Xay hết lò than đã rực hồng. (Bản dịch thơ của Nam Trân). Gia đình, trong suy tưởng của Người, là mái ấm, là chỗ dừng chân trên con đường muôn dặm như nhận xét của nhà nghiên cứu và giảng dạy Trần Đình Sử: “Nó chứng tỏ trái tim của nhà cách mạng vẫn đập theo những nhịp của con người bình thường, gần gũi với mọi người”(*). Là con người bình thường như mọi con người ở phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng nên có thời điểm tình cảm gia đình của người bị lay động mãnh liệt. Chúng tôi muốn nói đến bài thơ Trung thu trong Ngục trung nhật ký:
Trung thu thu nguyệt viên như kính,
Chiếu diệu nhân gian bạch tự ngân.
Gia lí đoàn viên ngật thu tiết,
Bất vong ngục lí ngật sầu nhân.
Ngục trung nhân dã thưởng trung thu,
Thu nguyệt thu phong đới điểm sầu.
Bất đắc tự do thưởng thu nguyệt,
Tâm tùy thu nguyệt cộng du du.
Trên là bản phiên âm từ nguyên tác chữ Hán. Bản dịch nghĩa của Thi viện như sau: “Trăng trung thu tròn như gương./ Chiếu rọi cõi đời, ánh trăng trắng như bạc./ Nhà ai sum họp ăn tết trung thu./ Chẳng quên người trong ngục nuốt sầu./ Người trong ngục cũng thưởng thức trung thu,/ Trăng thu, gió thu đều vương sầu./ Không được tự do ngắm trăng thu,/ Lòng theo cùng trăng thu vời vợi.”
Cũng như tết Nguyên đán, tết Trung thu là một cái tết sum họp đối với mọi gia đình Trung Quốc và Việt Nam. Đây cũng là dịp phá cỗ bánh trái của trẻ con. Người lớn thì có cơ hội gần gũi chuyện trò. Người nào đang ở xa, không có điều kiện về nhà sum họp tự nhiên thấy mình bất hạnh. Mới hiểu vì sao giọng điệu chủ đạo của bài thơ là giọng điệu buồn và nhân vật trữ tình lại tự gọi mình là ngật sầu nhân (kẻ ăn sầu). Người ta thì sum họp gia đình ăn tết trung thu vui vẻ còn mình lại ăn tủi nuốt sầu trong nhà ngục. Thật ra thì người trong nhà lao cũng ăn tết trung thu (Ngục trung nhân dã thưởng trung thu). Có điều trăng thu, gió thu nhà giam đều mang chút sầu (Thu nguyệt, thu phong đới điểm sầu). Chuyện ngắm trăng còn không được tự do, mong chi cảnh đoàn tụ, sum họp. Kết thúc bài thơ, do vậy, là hình ảnh người và trăng gợi nhiều suy cảm:
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu
(Tâm tùy thu nguyệt cộng du du)
Thì ra trong Nhật ký trong tù không chỉ có thương người mà còn có thương mình, thương thân. Thương người và thương thân, trong tâm thức Việt, có khi gắn bó máu thịt: Thương người như thể thương thân. Như thế là hợp tình hợp lí, chung riêng hài hòa. Con người cách mạng chân chính nhân ái mà không khắc kỉ, thương người đi đôi với tự thương mình…
Đọc lại, ngẫm nghĩ thêm về những-bài-thơ-gia-đình của Bác để càng thấm thía hơn đức hy sinh của Người cho đại gia đình các dân tộc Việt Nam!
P.Đ.D
(TCSH359/01-2019)
------------
(*) Trần Đình Sử - Đọc văn, học văn - Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.339.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)
TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.
NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.
HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.
HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)
NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...
TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)
HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)
NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)
PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).
NGUYỄN THANH MỪNG Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.
NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.
NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.