ĐOÀN TRỌNG HUY
Trong nhiều tư cách, lãnh tụ Hồ Chí Minh còn được vinh danh là một triết gia. Hơn thế nữa, là “triết gia vĩ đại” như đánh giá của một học giả nước ngoài qua Hội thảo Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay vào tháng 5/2010.
Ảnh tư liệu Wikipedia
Chế Lan Viên, sau ngày Bác mất đã khẳng định:
Đây cũng là nhà hiền triết hiểu chỗ đến, chỗ đi sự vật.
Hiền triết là triết gia có những hiểu biết cao sâu và được người đời tôn sùng.
Một cách chính xác, nên coi Người là triết nhân hơn là triết gia.
Triết gia là người làm triết học. Triết nhân là người có tư cách triết gia, có triết lý và sống theo quan niệm triết lý nhưng không thuyết lý triết học. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là một pho sách quý triết học, là một tuyên ngôn cho chủ thuyết triết lý. Đó là cơ sở cốt lõi nhất để đúc rút những trước tác triết học. Triết học qua một con người là như thế.
Qua Hoa trước lăng Người và thơ viết về Bác trong Di cảo thơ, Chế Lan Viên làm chúng ta cảm nhận rõ hình ảnh nhà hiền triết lớn Hồ Chí Minh.
Hồi 1946 Bác Hồ qua Pháp, nhà cầm quyền muốn khoe thanh thế quân lực để uy hiếp, mời Người dự duyệt binh, diễu binh và tham quan quân sự. Có một bức ảnh tuyệt vời: Hồ Chí Minh xòe bàn tay che nòng súng đại bác. Đó là tuyên ngôn của Người về ý chí quyết chiến, quyết thắng cũng là tuyên ngôn của Người về hòa bình chính nghĩa, phảng phất tư tưởng và triết lý của cha ông: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo” (Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi). Chủ tịch nước không chỉ sống với tác phong giản dị, tiết kiệm, thanh bạch. An nhiên, tự tại là quan niệm sống, là lẽ sống đầy ý vị triết lý của Người.
Dinh thự vị nguyên thủ quốc gia có một không hai trên thế giới:
…Ngôi nhà sàn giữa vườn hoa mộc
…Cái nhà sàn ở lẩn trong hoa
…Ngôi nhà sàn nằm yên trong hoa mộc, hoa ngâu.
(Bể và Người)
Hơn một lần nhà thơ khắc họa ngôi nhà của Bác.
Ngôi nhà sàn đã được hình tượng hóa, trừu tượng hóa và lung linh, hư ảo hóa… trong “Cõi Bác” chứa đựng triết lý sống của một vị “tiên phong đạo cốt”. Bác Hồ yêu thiên nhiên, một tình yêu mê đắm (Người tình nhân, Tri kỷ,…) với tất cả tâm hồn và nhận thức. Hòa nhập với tạo hóa. “Bác sống như trời đất của ta” (Tố Hữu). Người thể hiện triết lý của phương Đông; “Thiên - Địa - Nhân hợp nhất”. Có sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên - sự hài hòa của tiểu vũ trụ và đại vũ trụ. Cốt lõi của minh triết Hồ Chí Minh là thuyết nhân hòa. Người rất coi trọng nhân hòa, đặc biệt là trong quan hệ nhân gian, nhân thế. Tức là ngoài quan hệ trong tự nhiên, còn và chủ yếu còn là quan hệ xã hội: cá nhân và cộng đồng, con người quốc gia và quốc tế. Với ý nghĩa ấy, ngôi nhà sàn không chỉ là nơi Người ở, sống và làm việc. Đó là một căn cứ của nhà triết học: Tự nơi đây, mắt Bác dõi vô cùng/ Với bốn bể của đời, không cách trở… Cái nhà sàn ở lẩn trong hoa/ Vẫn không ngớt lắng triều nghe nhịp bể”.
Toàn bộ lối sống, cuộc sống, cuộc đời trần thế của Hồ Chí Minh, từ ăn, ở, mặc, sinh hoạt đến hoạt động, hành xử… là một tuyên ngôn triết lý - một triết lý vô ngôn. Chỉ riêng một vật dụng rất bình thường thậm chí tầm thường “Cái quạt mát làm bằng lá cọ” cũng nói lên bao ý nghĩa triết lý. Ngoài thể hiện cách sống hòa hợp tự nhiên: “Áo mở cúc cho gió hè thổi mát” còn là biểu hiện của một đạo sống: “Người sống thu nhỏ lại, giấu mình đi, không làm phiền ai hết cả”. Cái quạt lá có thể tiết kiệm điện, khi có quạt máy đã đành, nhưng lại chủ động cả khi mất điện. Triết lý là ở ý nghĩa này: con người có thể tạo ra gió ở bất cứ nơi đâu, ở bất cứ chỗ nào. Hoặc khái quát hơn, như một ý thơ “Bàn tay ta làm nên tất cả” để nói về sức người, trí tuệ người. Đó là một triết lý nhân sinh đề cao con người: con người vượt lên hoàn cảnh, con người cải tạo hoàn cảnh để làm cho hoàn cảnh trở nên nhân văn hơn. Triết lý ấy mang sức mạnh kỳ diệu. Ý chí anh hùng cá nhân biến hóa thành vô địch qua con người lãnh tụ: “Và Bác đã chiến thắng tên khổng lồ điện tử/ Nhờ màu hồng ngọn cờ, sắc đỏ trái tim” (Người chẳng có gì riêng). Cả cuộc đời, sự nghiệp Hồ Chí Minh là minh chứng hùng hồn, rạng rỡ mãnh liệt và thông điệp sâu sắc cho triết lý sống.
Trong lại mắt người, hồng lên chân lý
Luận điểm lại sáng ngời như lộc biếc đầu cây.
Tuy thiên về triết lý nhân sinh hành động nhưng trong những trường hợp cần thiết, Người vẫn “lập ngôn”, “lập thuyết”. Nhưng đó là cách nói cũng như cách viết nhất quán một đời của Người là kiệm ngôn. Có những lời phát biểu ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu nhưng cô đúc súc tích ý nghĩa, có sức nén rất cao mà ta có thể gọi đó là danh ngôn. Và cao hơn thế còn là châm ngôn - tức câu nói có tác dụng hướng dẫn về đạo đức, về cách sống - hoặc cách ngôn - câu nói ngắn gọn được lưu truyền, có ý nghĩa giáo dục về đạo đức.
Kiệm ngôn là một quan niệm cực kỳ sâu sắc trong trường hợp Hồ Chí Minh. Ấy là cái đúc kết qua nghìn vạn trải nghiệm là sự cảm nhận nghiền ngẫm, suy tính đã quyết liệt, kỳ cùng: “Vầng trán nào nghĩ suy dữ dội nhất ngày nay về các bãi gieo và các bãi chiến trường?/ Trái tim nào giải đáp đúng nhất cho ta những câu hỏi chiến tranh và thời đại hỏi? Lặng lẽ, lặng lẽ từng bước, chân Bác qua đây như vạch một con đường”. Người nói ra những ý tưởng là những thông tuệ tinh túy của bậc đại trí, đại dũng: “Ấy là cái trí tuệ anh hùng, cái dũng cảm tuyệt với trí lực của nhân dân”.
KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO là lời ca chiến đấu và chiến thắng đã mang tính nhân loại. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Hồ Chí Minh dẫn Luận ngữ. Tăng Tử trả lời “Tất nhiên”. Chỉ một từ mà thể hiện cả nghị lực và toàn bộ kiến thức. Người lại dẫn chuyện một vị tướng của Napôlêông đệ nhất bị bao vây ở Oatéclô. Kẻ địch dụ hàng, ông đáp cộc lốc: “Cứt”. Người bình luận: “Câu nói ấy chỉ có một từ, lại là một từ tục tĩu. Nhưng trong tình thế nghiêm trọng ấy của vị tướng, nghìn lời nói khác cũng không thể nào thể hiện được lòng dũng cảm và sự khinh bỉ của ông với kẻ thù”. Với Hồ Chí Minh, ta hãy nghe một đoạn đối thoại:
- …Thưa Chủ tịch, Chủ tịch ghét gì nhất?
- Điều ác.
- Thưa Chủ tịch, Chủ tịch yêu gì nhất?
- Điều thiện.
- Thưa Chủ tịch, Chủ tịch sợ gì nhất?
- Chẳng sợ gì cả. Một người yêu nước không sợ gì hết và nhất thiết không được sợ gì.
(Trả lời phỏng vấn của Báo Frères D’armes)
Hơn nữa cách nói kiệm ngôn còn mang phong cách của ngôn ngữ dân tộc.
Với dân tộc ít lời, Người ít nói
Thấy nhiều trời bể non sông, giờ phải nói chi nhiều.
(Đọc văn Người)
Triết lý ấy - toát ra từ tư tưởng và đạo đức của Người. Đậm đà là triết lý nhân sinh - triết lý của Con người, triết lý vì Con người, cho Con người: cốt lõi của nó là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh hình thành trên cơ sở học thuyết Mác về con người và giải phóng con người và truyền thống nhân ái dân tộc với chủ nghĩa nhân đạo của văn minh phương Đông và phương Tây. Mục tiêu cao cả của chủ nghĩa nhân văn ấy là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Con người được quan niệm là giá trị quý nhất, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực chủ yếu của cách mạng.
Nhân loại biếc màu xanh Người để lại
Trong thế giới bạo tàn này Người là những bóng cây xanh
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh chính là tư tưởng triết học của người. Đó là cơ sở cho triết lý nhân sinh Hồ Chí Minh - hiện thân sinh động của những tư tưởng sáng tạo về giải phóng con người, phát huy tối đa sức mạnh con người để trở nên vô địch.
Cũng có thể coi đó là triết lý tình nghĩa: minh triết Hồ Chí Minh là sự kết hợp của trí tuệ và đạo đức. Người từng viết: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa”. Hồ Chí Minh nói: “Rồi đây bốn bể một nhà”. Cổ điển và hiện đại nữa. Thấu triệt quan niệm “Vạn chúng nhất tâm” của Đức Phật, ý tưởng “Thế giới đại đồng” của Khổng Tử và Tự do, Bình đẳng, Bác ái của Chúa Giêsu (Jesus).
Hồ Chí Minh đã đi qua các triết thuyết tôn giáo để có thể từ đó chọn lọc yếu tố tích cực tạo dựng một triết thuyết mới của cách mạng vô sản triết thuyết nhân sinh hiện thực và hiện đại.
Tình thương của Người là bóng mát cây xanh
Tỏa đến đâu che lòng ta đến đó
Triết thuyết Hồ Chí Minh được đúc kết từ thực tiễn, là triết lý thực tiễn. Ba mươi năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước là một thời gian rất đáng kể trong đời để ngộ ra chân lý cách mạng.
Biện chứng đã vỡ lòng trong bão táp.
Bể và Người là một thuyết minh cho triết gia Hồ Chí Minh, cũng tức là thể hiện cốt cách, ý tưởng, lập luận, thuyết lý của Người. Con người ấy từng “lênh đênh theo sóng bể” khắp đại dương châu lục. Qua Những đất tự do, những trời nô lệ để phát hiện Những con đường cách mạng đang tìm đi. Bể đối với Người là đa nghĩa. Là “bể cả” trùng dương mênh mông cũng là “bể loài người” là “nhân loại - bể”. Nhưng quan trọng hơn hết là “bể triết học” trong nhận thức của một thiên tài. Qua bể là bài học về duy vật biện chứng và cả duy vật lịch sử:
Bác nghe bể và tìm ra quy luật
Bể lặng im nuôi dông bão bất thần
Hưng vong thế vẫn mỗi ngày hồi phục
Bể nghìn đời mà mãi mãi thanh tân
Mang phong cách độc đáo với thủ pháp nghệ thuật đặc sắc về tư duy, Chế Lan Viên dễ dàng phát hiện phép biện chứng tâm hồn qua cách nhìn sự vật, hiện tượng “giữa hai bề đối lập” của Hồ Chí Minh.
…Đất nước thừa người làm thơ mà thiếu người viết sử
…Để cái sống đau gần như cái chết
…Giấu niềm đau trong một ngày vui
…Vào máu lửa mà giành hoa hạnh phúc
Ta như được nghe lý luận của Người về tính phổ biến của mâu thuẫn “Cái gì cũng có mâu thuẫn, vì cái gì cũng có biến âm, dương, có sinh, có tử, có quá khứ, có tương lai, có cũ, có mới. Đó là những mâu thuẫn sẵn có trong mọi sự vật”. Đúng là cách nói của nhà hiền triết phương Đông có tinh thần của Kinh Dịch, ý tưởng của giáo lý Phật.
Tuy nhiên, cao hơn hết là đặc điểm của một dạng triết lý Hồ Chí Minh: triết lý hành động.
Ở Hồ Chí Minh, triết lý và hành động gắn liền mật thiết với nhau. Đó là triết lý hướng tới hành động, hành động theo triết lý, tự nó nói lên triết lý. Như nói ở trên, triết lý đã bao hàm xu thế hành động, không có triết lý suông. Vì vậy hành động là hành động có triết lý. Tất cả quan hệ xoắn xít, mật thiết với nhau, tạo nên triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Cũng có thể gọi đó là triết lý thực hành: nói và làm, nói là làm, làm để nói.
Mang cốt cách hiền triết Châu Á, Hồ Chí Minh để lại pho sách triết học đồ sộ cho sự khai thác vô cùng của thiên hạ. Rất coi trọng thực tiễn nhưng cũng không xem nhẹ lý luận. Lý thuyết kết hợp thực hành để trở nên nhuần nhuyễn, thuần thục qua hành động.
Nếu triết học Hồ Chí Minh là triết học thực tiễn thì biện chứng Hồ Chí Minh là biện chứng thực hành - biện chứng vận dụng “trong bão táp” đấu tranh cách mạng. Nội dung và đặc điểm của phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh có thể quy tụ vào mấy điểm chính:
- Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, giữa cái phổ biến và cái cá biệt, giữa riêng và chung.
- Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn và thống nhất của các mặt đối lập.
- Biện chứng giữa cái “bất biến” và cái “vạn biến”.
Sau ngày đất nước thống nhất, Chế Lan Viên viết Bể và Người để suy ngẫm thấm thía về tài năng tuyệt vời của Người Thủy Thủ vĩ đại: Con tàu Việt Nam qua nghìn trận phong ba/ Về đến đích ngót nửa vòng thế kỷ. Hồ Chí Minh đã học lý luận tại Đại học Phương Đông và thực tiễn trong “bão táp” cách mạng.
Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác theo con đường Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Có thể nói,với phong cách suy tưởng trí tuệ, Chế Lan Viên qua thơ đã thành công đặc sắc trong việc phác họa đậm nét bậc hiền triết Hồ Chí Minh.
Đ.T.H
(SH279/5-12)
-------------
1 - Tất cả trích dẫn trong bài viết đều lấy từ Chế Lan Viên tuyển tập (tập 1) – Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1985.
2 - Tất cả nhấn mạnh trong bài là của người viết.
3 - Tất cả phát biểu, nói chuyện, diễn văn… của Chủ tịch Hồ Chí Minh là trích từ Danh ngôn Hồ Chí Minh – Thành Duy biên soạn từ Toàn tập Hồ Chí Minh do Trung tâm Nghiên cứu Quốc học - Nhà xuất bản Văn học, 2011.
Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.
1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).
(Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.
Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)
Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".
Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).
Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.
Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.
LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH
Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.
Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.
Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.
(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...
Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.
(Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.