Hiện thực chiến tranh trong "Vùng lõm" của Nguyễn Quang Hà

14:39 14/12/2011
LGT: Tiểu thuyết Vùng lõm của nhà văn Nguyễn Quang Hà được giải nhì cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 3 của Hội Nhà văn Việt Nam 2006 - 2010. Ngày 24 - 10 - 2011 Hội đã tổ chức tọa đàm tiểu thuyết Vùng lõm, Sông Hương xin giới thiệu bài tham luận của nhà văn Đỗ Ngọc Yên.

Nhà văn Nguyễn Quang Hà. Ảnh: LVT

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]


ĐỖ NGỌC YÊN



Có người nói rằng chiến tranh là một cái “lò bát quái” khổng lồ, trong đấy những con người bằng xương bằng thịt ở cả hai bên chiến tuyến đều phải chấp nhận và đi qua. Kẻ nào chịu đựng được một cách tốt nhất sức nóng của cái lò ấy sẽ là người chiến thắng. Cái lò ấy không mấy xa lạ với những người trong cuộc như anh Nguyễn Quang Hà, những người đã từng đem hết cả sức trẻ trai, và cũng là toàn bộ sức lực của cả cuộc đời cho cuộc chiến chống lại kẻ thù xâm lược cách đây hơn 40 năm về trước.

Hiện thực chiến tranh nhìn từ phía người lính

Sở dĩ phải nhìn hiện thực ấy trên hết và trước hết từ phía những người lính, vì chính họ là công dân của một quốc gia khi có kẻ thù đến cướp đất nước mình. Đất nước như là mẫu số chung, hay chữ số để ngoài ngoặc đơn, mà tử số hay chữ số trong ngoặc đơn chính là những con người cá nhân bằng xương, bằng thịt với tư cách là những thành viên của cộng đồng, đất nước. Sau cá nhân là gia đình, vợ con, những người thân, chòm xóm, quê hương... Cha ông ta đã từng dạy rằng: nước mất, nhà tan. Một logic tất yếu không thể đảo ngược được. Và khi đất nước có ngoại xâm thì “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, huống chi những thanh niên trai trẻ thuộc thế hệ anh Nguyễn Quang Hà hơn 40 năm về trước, ở cái thời mà được lên đường tòng quân đánh giặc với bạn bè cùng trang lứa, hòa cùng đoàn quân ra trận, còn vui và tự hào hơn bất cứ phần thưởng nào. Những người lính ấy là những tín đồ của tự do và độc lập dân tộc, họ lăn xả vào cuộc chiến mà không hề hay biết phía trước là con đường đầy chông gai, gian khổ, tốn nhiều mồ hôi, công sức, có khi phải hy sinh cả tính mạng, nên họ cứ đi và chỉ biết có chiến đấu và chiến thắng. Không đắn đo, suy nghĩ, không bàn tính viển vông, chỉ có đi... đi... đi, đánh... đánh... đánh và thắng... thắng... thắng.

Suy nghĩ, lòng nhiệt tình, ý chí quyết tâm ấy đã thấm vào máu những người lính. Nếu không may nằm xuống, cũng xong, vì họ đã ngã xuống cho quê hương, đất nước. Còn sống, họ còn mang theo hơi thở, sức nóng của cuộc chiến ấy cho đến hết đời. Không chỉ có những người lính làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta, mà còn có cả cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc đã hun đúc, tôi luyện nên những người lính.

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]Tọa đàm văn học tiểu thuyết "Vùng lõm" của nhà văn Nguyễn Quang Hà

Dù được thể hiện dưới hình thức thể loại tiểu thuyết, nhưng “Vùng lõm” rất giàu chất liệu hiện thực đời sống như hãy còn tươi rói của cuộc chiến ở vào giai đoạn cam go nhất, khi mà nỗi lo, sự trăn trở lớn nhất đối với huyện đội An Lạc nói riêng và khu V nói chung, khi ở xã Mai Trung còn là một “vùng lõm” đích thực vì thiếu sự hiện diện của quân giải phóng, lực lượng cách mạng, khiến người đọc cảm thấy dường như chiến tranh đang hiện hữu đâu đó, và nếu kết thúc thì cũng cách đây chưa lâu, nên có thể coi đây là một cuốn nhật ký chiến trường hay tiểu thuyết phóng sự chiến tranh cũng đúng. Cuốn sách miêu tả về quá trình hình thành, xây dựng một căn cứ cách mạng ở “vùng lõm” làng Hiền Mai để từ đấy phát triển ra toàn chiến trường khu V, làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc chiến tranh nhân dân ngay trong lòng địch. Đấy có thể được coi là căn cơ, cốt lõi để tạo lập nên thế trận toàn dân trong chiến lược chiến tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặt khác đấy cũng chính là mạch nguồn xuyên suốt tư tưởng chủ đề của Vùng lõm. Dù kẻ thù có lợi thế hơn nhiều về tiềm lực kinh tế và quốc phòng so với quân đội ta, nhưng cái thiếu duy nhất đối với chúng là mục đích chính nghĩa của cuộc chiến tranh, nên dù có gian khổ, hy sinh đến mấy thì người lính vẫn phải chiến đấu và đã chiến thắng.

Làng Hiền Mai cũng như bao làng khác của chiến trường Bình-Trị-Thiên năm xưa với lính tráng, đồn bốt chăng đầy, với mưu đồ “không cho Cộng sản ngóc đầu dậy”. Sự có mặt của chúng cũng đồng nghĩa với sự cướp bóc, hà hiếp những người dân thường vô tội, gây bao nhiêu đau thương tang tóc cho người dân. Chứng kiến cảnh một tên lính ngụy hạch sách, đe nẹt chị bán hàng quà vặt ngoài chợ làng, Hoài nói với Dư: “Anh coi người dân trong vùng địch tạm chiếm khổ không, phải đối diện với địch hàng ngày. Bị đủ mọi thứ kềm kẹp. Chúng thì có súng ống, có quân đội trong tay. Còn người dân chỉ có hai bàn tay trắng. Trước tình hình thế ấy, nhiều gia đình cho con đi lính ngụy chỉ để bọn tề ngụy không bắt nạt, không dọa dẫm, không ức hiếp. Người dân yêu nước cũng đành nằm im. Nằm im đã là yêu nước rồi...” (tr 104).

Sau trận đánh bất ngờ vào đồn Lồ Ô ở Mai Trung làm kẻ địch không kịp trở tay, những cái tên như Dư, Hoài, Xuân, Tiếm, Khôi, Cam, Đợi,... càng trở nên thân thuộc hơn đối với dân làng Hiền Mai. Nói đúng hơn chính những người lính này đã trở thành một phần máu thịt không thể thiếu đối với dân làng, dù có thể họ không cùng được sinh ra ở cái làng này, nhưng tất cả đều vì người dân làng Hiền Mai mà chiến đấu đem lại cuộc sống bình yên cho họ.

Trong hoàn cảnh của cuộc chiến lúc bấy giờ, từ hội họp, đi trinh sát mục tiêu, lập kế hoạch tác chiến, đánh đồn Lồ Ô, rồi vận động quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh bán vũ trang, cảm hóa kẻ lầm đường như Sỏi, Lộc, Lộ..., vận động những người có uy tín trong làng như giáo sư Nguyễn Bản, giúp đỡ quân giải phóng, phần lớn đều diễn ra trong đêm. Còn ban ngày, những chiến sỹ giải phóng quân buộc phải giấu mình trong những căn hầm bí mật chật ních và tối om do chính tay họ đào hay do mẹ của Hoài, dì Hới cùng người dân làng Hiền Mai đào để nuôi giấu cán bộ. Trong hoàn cảnh ấy của cuộc chiến, “nhiều gia đình vẫn tiếp tục làm cơ sở cho cách mạng, đào hầm bí mật ngay trong nhà cho anh em mình lánh thân... đồng bào đong gạo tiếp tế cho bộ đội” (tr 105).

Vùng lõm là cuốn tiểu thuyết viết về cuộc chiến tranh nhân dân ở vùng chiến trường khu V khốc liệt nhất trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược cùng bè lũ tay sai ngụy quyền lúc bấy giờ. Nói rằng đấy là cuộc chiến tranh nhân dân là hoàn toàn đúng với đầy đủ ý nghĩa của nó, vì những người lính từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu và chiến thắng. Sau khi chiến tranh kết thúc phần lớn trong số họ lại trở về đời sống của những người dân trên khắp mọi miền Tổ quốc Việt Nam.

Cùng chung một lý tưởng sống, một mục đích chiến đấu, nên phẩm chất ưu trội của người lính ở đây là bằng mọi giá đều phải chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Trong đời sống tình cảm, những sở thích cá nhân không phải lúc nào giữa họ cũng giống nhau. Chẳng hạn như mối quan hệ giữa xã đội trưởng Huỳnh Thế Tô, cán bộ biệt phái của huyện đội An Lạc Nguyễn Văn Dư và nữ chiến sĩ giải phóng quân Trần Thị Thu Hoài có lúc giữa ba người không khỏi có những đắn đo, suy nghĩ, buồn phiền về nhau. Nhưng không vì thế mà họ làm chệch hướng mục tiêu chung của cuộc chiến. Cái đáng quí nhất ở họ chính là biết đặt mục đích cuộc chiến đấu lên trên những tình cảm, ước vọng cá nhân.

Hiện thực chiến tranh nhìn từ phía con người

Cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta nếu chỉ nhìn nhận ở kết quả cuối cùng là thắng hay thua, giữa ta và địch thì sẽ là không thỏa đáng và chưa xứng với tầm vóc của nó.

Điều này đã được nhà văn Nguyễn Quang Hà bước đầu đặt và giải quyết vấn đề ở khía cạnh con người. Nói về một cuộc chiến mà chỉ quan tâm về lực lượng, trang thiết bị kỹ thuật,... những yếu tố góp phần tạo nên kết quả thắng hay thua của cuộc chiến thì chắc chắn là chưa thấu đáo, thiếu tính thuyết phục. Vì điều ấy ở mọi cuộc chiến đều có thể cân, đo, đong, đếm được. Chỉ có các yếu tố ấy sẽ không thể nào lý giải được câu hỏi tại sao một quân đội thiện chiến được trang bị vũ khí tối tân, được chu cấp mọi phương tiện, điều kiện vật chất tốt nhất cho những người lính có mặt ở chiến trường, mà cuối cùng lại bị thất bại một cách thảm hại trước một quân đội kém hơn về so sánh sức mạnh
tổng lực. Thiết nghĩ chúng ta chỉ có thể đi tìm lời giải ấy từ khía cạnh con người với tư cách là chủ thể, là hạt nhân cốt tử đảm bảo thắng lợi cho cuộc chiến.

Chưa vội bàn đến những tên lính trong đội quân xâm lược đến từ bên kia bờ đại dương - quân Mỹ, mà trước hết ở đây chúng ta hãy xem cách hành xử về quan hệ giữa con người với con người cùng chung dòng máu Việt Nam, nhưng lại ở hai bên chiến tuyến.

Một bên là những người lính chiến đấu vì sự dẫn dụ của đồng tiền, vì bát cơm manh áo, vì những điều kiện vật chất sung túc của cá nhân và gia đình họ hay vì một lý tưởng nào khác, không phải vì độc lập tự do dân tộc như trung úy Phan Lộc, Lại Văn Sỏi, Trịnh Văn Lộ,... Còn phía bên kia là những người lính chiến đấu vì cuộc sống bình yên của nhân dân mình, vì độc lập, tự do của Tổ quốc mình. Hai mục tiêu hoàn toàn trái ngược nhau ắt sẽ dẫn đến hai động cơ, sức mạnh không bao giờ giống nhau cả. Sau khi pháo Mỹ từ cây số 17 bắn vào nhà trung úy ngụy quân Phan Lộc ở Hiền Mai, như là đòn trả đũa vụ đồn Lồ Ô bị đánh cách đấy chưa lâu, đã giết hại bố và 5 người anh em của hắn thì dân làng Hiền Mai, dưới sự chỉ đạo của Dư đã mang 6 cái xác lên gặp Quận trưởng An Lạc bắt chúng bồi thường thỏa đáng cho gia đình nạn nhân dù đấy là người của gia đình của tên trung úy ngụy, rồi sau đấy mới chịu mang xác tử nạn về mai táng. Giáo sư Nguyễn Bản bằng cái tâm, sự hiểu biết và uy tín của mình đã bắt Quận trưởng phải cúi đầu nhận tội.

Đấy chính là khía cạnh nhân bản của cuộc chiến chỉ có thể có được từ phía người dân và những chiến sỹ giải phóng. Khía cạnh nhân bản ấy không thể có ở kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai. Nó chính là động lực, nguồn cội của mọi chiến thắng.

Một khía cạnh nhân bản khác mà nhà văn Nguyễn Quang Hà đã khai thác khá thành công trong Vùng lõm là tình yêu. Trước hết đấy là tình yêu đất nước, dân tộc. Xét cho cùng, những người như Phan Lộc, Lại Văn Sỏi hay Trịnh Văn Lộ cũng đều là người Việt Nam ta cả, cũng máu đỏ, da vàng. Có thể do nhiều yếu tố khách quan của cuộc chiến đã đẩy họ đi theo con đường làm tay sai cho kẻ thù xâm lược. Một lẽ thường tình, người Việt ai chẳng yêu nước mình, ai chẳng muốn sống trong hòa bình, độc lập, tự do: “Dân mình ai cũng khát độc lập, tự do cả. Con em họ cầm súng cho địch chẳng qua là bị lừa. Đánh thức được ý thức dân tộc trong họ thì họ là người mình cả” (tr 272). Tuy nhiên những người bên kia chiến tuyến có thể họ còn chưa hiểu thấu đáo thế nào là yêu nước, thương nòi, nhưng lại hiểu rất rõ những quyền lợi vật chất mà họ có được khi đứng trong hàng ngũ kẻ thù. Không ít người nghĩ rằng những người một thời cầm súng cho kẻ địch đều bị lừa cả. Thực tế chưa hẳn đã là như vậy, bởi lẽ họ cũng có lý tưởng và lý do riêng khi đứng trong hàng ngũ kẻ thù. Chỉ có điều lý tưởng và lý do ấy không song hành cùng dân tộc, thậm chí đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân.

Trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, những người Cộng sản không chỉ biết có chiến đấu, mà quan trọng hơn là phải biết cảm hóa những người đã lầm đường lạc lối. Nguồn cội của sự cảm hóa chính là lòng bao dung độ lượng, thấm đẫm tinh thần nhân văn Cộng sản, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, lấy mục tiêu độc lập tự do làm cứu cánh thay vì quyền lợi vật chất trước mắt như kẻ thù vẫn làm. Chính vì ý nghĩa lớn lao của tinh thần nhân bản mà Dư và đồng đội của anh đã cảm hóa được trung úy Ngụy Phan Lộc, Lại Văn Sỏi và Trịnh Văn Lộ. Cảm hóa và lôi kéo những người lầm đường về phía mình cũng là cách để rút ngắn thời gian chiến tranh, cũng đồng nghĩa với việc xương máu của đồng bào mình đổ xuống ít hơn. Đấy cũng là mục tiêu cuối cùng của cuộc chiến tranh mà nhân dân ta đã tiến hành ròng rã hàng chục năm trước đây.

Sau tình yêu đất nước là tình yêu của những người Cộng sản, tình yêu ấy đã được nhà văn Nguyễn Quang Hà miêu tả khá tỉ mỉ và chân thực qua mối tình giữa Dư và Hoài. Có thể nói Dư đến với Hoài hết sức tự nhiên và bằng sự chân thành.

Họ đã lấy hoàn cảnh cuộc chiến để làm phép thử nhiệm màu cho tình yêu đôi lứa đâm chồi nở hoa. Dư hy sinh, đã làm cho ước nguyện nên vợ thành chồng giữa hai người không được toại nguyện, giữa đường đứt gánh, nhưng không vì thế mà tình yêu của họ không đẹp và càng không phải đấy là bi kịch, trái lại sự hy sinh của Dư như là tô thêm sắc đỏ cho tình yêu. Bởi vậy khi Dư ngã xuống, dù có làm cho Hoài đau đớn, nhưng cô không gục ngã.

Có thể nói, tình yêu đôi lứa dù trong chiến tranh hay hòa bình, ở đâu trên thế gian này cũng là biểu hiện của tính nhân bản sâu xa nhất của con người. Không ở đâu tính người được bộc lộ một cách đầy đủ, phong phú và sâu sắc như trong tình yêu đôi lứa. Ở đấy mọi ước lệ và mọi rào cản mang tính chất hình thức của quan hệ thông thường đều bị vượt qua nhường chỗ cho bản tính người. Nhưng tình yêu đó sẽ bớt đi tính vị kỷ cá nhân, trở nên thiêng liêng và đáng quý biết bao khi nó được lồng trong tình yêu đất nước và dân tộc, lồng trong tình yêu đồng bào, đồng chí và đồng loại. Khi ấy, tình yêu lứa đôi như được chắp thêm đôi cánh của chim phượng hoàng mãi bay cao, bay xa đến bến bờ vô tận của hạnh phúc.

Đ.N.Y

(274/12-11)








Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

  • MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

  • HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

  • TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.

  • HOÀNG TẤT THẮNG                1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.

  • NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.

  • PHẠM PHÚ PHONG            Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau.                                                                                       Nguyễn Đình Thi

  • PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)