NGỌC BÁI
(Đọc tiểu thuyết “À BIENTÔT…” của Hiệu Constant)
Ảnh: internet
Cuộc đối thoại khá đặc biệt giữa cựu Đại sứ người Pháp, Jean-Claude Lacour với Hoài Thu, phóng viên Việt Nam tại Hội thảo Quốc tế tại Paris, đã chứng tỏ sự bình đẳng về nhân cách, bình đẳng về địa vị xã hội, bình đẳng về tuổi tác và bình đẳng dân tộc giữa các quốc gia. Cuộc Hội thảo có chủ đề “Mối quan hệ Việt Nam - Pháp và châu Âu kể từ 1954”, đã tạo cơ hội cho nhân vật vốn dĩ xa cách về địa lý, về văn hóa, với sự cảm thông, chia sẻ sau những biến cố của cuộc sống. Từ những chuyện chung tới những chuyện riêng tư đã khiến nhân vật Jean-Claude và Hoài Thu có mối đồng cảm sâu đậm, tinh tế. Mối đồng cảm càng trở nên sâu sắc mỗi khi hai người gặp gỡ nhau! Phải chăng đó là tình yêu không biên giới? Tình yêu vượt qua tuổi tác? Tình yêu phi đẳng cấp? Đấy cũng là điều tác giả Hiệu Constant gửi gắm.
Mối liên hệ tự nhiên giữa Hoài Thu và Jean-Claude vừa cảm tính, vừa lí tính. Đó là sự linh cảm hiếm có. Họ gặp nhau trong hội thảo, nhưng cũng đã từng gặp nhau thoáng qua từ trước đó ở Hà Nội. Khi ấy Jean-Claude đã là Đại sứ ở Việt Nam, còn Hoài Thu mới chỉ là cô bé vừa qua trận lụt khủng khiếp, theo dân làng đến nhận cứu trợ. Món quà nhỏ và dòng chữ À BIENTÔT… đã ghi dấu ấn mạnh mẽ trong tâm trí cô bé gái. Hẹn gặp lại! có phải là tiếng nói của định mệnh? Chính cái ngày đáng nhớ đó, lại là ngày sinh nhật của Hoài Thu.
Hoài Thu lớn lên, gắng gỏi học hành và nuôi hi vọng. Chính câu nói của Jean-Claude “Sois sage, travaille bien à l’école et à bientôt! ” đã thành động lực để Hoài Thu phấn đấu không ngừng. Sau này Hoài Thu tốt nghiệp đại học và trở thành phóng viên của một tờ báo trong nước. Ý chí và nghị lực đã là chiếc cầu nối để Hoài Thu bước tới những chân trời. Còn Jean-Claude sau khi hết nhiệm kỳ đại sứ ở Việt Nam, đã đi làm Đại sứ ở nhiều quốc gia khác nhau, nhưng hình ảnh Việt Nam vẫn khắc sâu vào tâm khảm anh. Ở đó hấp dẫn bởi cảnh sắc thiên nhiên Việt Nam đẹp hay bởi tâm hồn cao cả của người dân đất Việt, đã từng chiến thắng những thử thách nghiệt ngã của thời quá khứ?
Theo tâm sự của Jean-Claude, Hoài Thu càng thấu hiểu cuộc sống và sự thăng tiến của chàng trai Pháp không dễ dàng chút nào. Jean-Claude đã có tuổi thơ khá buồn vì cha mẹ không hòa hợp. Cuộc sống xô đẩy, buộc Jean-Claude phải vượt lên, làm chủ vận mệnh của mình. Còn Hoài Thu, số phận đẩy vào hoàn cảnh vô cùng bi thương. Từng là đứa con bị bỏ rơi. Cha mẹ không còn, nhưng bù lại Hoài Thu có cha mẹ nuôi tuy nghèo nhưng vô cùng nhân ái. Số mệnh đã cướp đi những người thân yêu ruột thịt, nhưng tình cảm sâu xa họ để lại là vô giá. Đấy là tất cả những gì Hoài Thu được bù đắp, như một thứ tài sản đặc biệt trên suốt chặng đường đời Hoài Thu trải qua.
Cuộc sống gian nan đã cắt nghĩa sự phấn đấu vươn tới thành đạt của mỗi người. Jean-Claude ngày càng chững chạc trong vai trò ngoại giao, có mặt ở nhiều quốc gia có các phong tục tập quán khác nhau, thì Hoài Thu là phóng viên báo chí vững vàng, đã từng có mặt ở nhiều nơi nóng bỏng các sự kiện thời sự, với những bài báo kịp thời với nội dung sắc sảo và chuẩn xác.
Qua câu chuyện tự sự của Jean-Claude và Hoài Thu, người đọc rõ thêm được hoàn cảnh của mỗi người. “Đôi lúc anh cũng nhớ quay quắt, nhưng quê anh giờ chả còn ai. Chỉ còn nghĩa địa, nơi có những nấm mộ đang yên nghỉ... Đến đó chỉ khuấy động lại những kỷ niệm buồn...”. Đó chính là nỗi niềm sâu kín của Jean-Claude. Đối với Hoài Thu, xuất thân từ làng quê: “Gia cảnh điêu đứng. Bố nó là thợ hồ, đi đây đó làm việc suốt năm để lấy tiền đóng học cho anh em nó. Mẹ làm ruộng. Ngoài số ruộng được chia, mẹ còn nhận thêm một số suất đất của những người trong làng đã đi làm ăn ở Hà Nội...”. Trích dẫn những trang viết này để thấy rằng Jean-Claude và Hoài Thu đều từ lớp người bần cùng, dù dưới những góc độ khác nhau, bươn chải lo toan, từ đấy đã khẳng định được cuộc sống, tuy có vị trí xã hội nhất định, nhưng luôn bình dị, dễ cảm mến, dễ gặp nhau...
Sống chung một gia đình nhưng mỗi người mỗi khác, Tuyển là anh cả nhưng đua đòi bê tha sa vòng lao lí; chị Hiên thì hiền lành chân chỉ, có cuộc sống vợ chồng đề huề an phận. Kỷ niệm về những người Hoài Thu từng biết, đã khắc sâu vào trí nhớ: thầy Thường yêu cô An, nhưng khi đi chiến trường B, cô An ở nhà lấy thầy Chiến đi học nước ngoài. Khi chiến đấu trở về thầy Thường rất buồn... Chuyện Minh, bạn học cũ của Hoài Thu, từng đi bộ đội, có vợ có con trai, sau ra quân vì bần cùng phải đi đào vàng, sa vào cạm bẫy của cờ bạc nghiên hút, nhiễm HIV. Vợ bỏ ra thành phố đi với người khác. Hay cái thời cải cách ruộng đất, bố mẹ chồng bà Lãng bị đấu tố tàn độc. Sự vô vọng của bà Lãng, chờ đợi ông Kiên đi biền biệt và đã hi sinh ở chiến trường...
Chính sự đi nhiều, hiểu biết nhiều những cảnh đời khác nhau, đã tạo cho Jean-Claude và Hoài Thu đồng cảm với những con người có các hoàn cảnh riêng. Dọc chặng đường sống và công tác nay đây mai đó, Jean- Claude cũng không thể quên thời ấu thơ ở trường Dòng. Rồi khi đã thành nhà ngoại giao, đã từng đến nhiều quốc gia, với những người bạn, những người cộng sự và cả những người tình, điều đó là lẽ thường. Nhưng cuộc gặp gỡ Hoài Thu đã để lại trong tâm trí Anh sự quý trọng và cảm mến ngay từ những phút giây đầu. Người cộng sự, Paul cố vấn văn hóa, với Jean-Claude như thể bạn cố tri. Đã để lại dấu ấn tình cảm không phai mờ. Những bạn gái: Caroline, Hélènne, Jasdia, Genevière hơn một lần đã làm tổ trong tình cảm của Jean-Claude. “Sau mỗi cuộc đổ vỡ, sau mỗi lần chia tay, anh thường tự an ủi: “Vạn vật có phân ly, ắt có thành tựu”. Đấy chính là tâm sự của Jean-Claude. Đấy còn là sự thử thách và chọn lựa của người từng trải.
Cuộc đối thoại của Hoài Thu và Jean-Claude đi suốt chiều dài tiểu thuyết. Ở đó, thời quá khứ và hiện tại đồng hiện. Với bao cảnh tình, bao đổi thay, với công việc của nhà ngoại giao, công việc của phóng viên báo chí. Và, cuối cùng là câu nói bật ra từ trái tim Jean-Claude: “Anh hẳn có thể làm bất kỳ điều gì lúc này miễn được ở bên cô gái Việt Nam yêu kiều và quyến rũ này”!
Chỉ có niềm tin yêu mới đủ sức đi tới cuối con đường. Đó là quyết định. Đó là tất cả cầu mong, là hứa hẹn của Jean-Claude với Hoài Thu: À BIENTÔT! Hẹn gặp lại! Có phải Hoài Thu cũng chờ đợi điều ấy?
N.B
(TCSH329/07-2016)
Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.
PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.
...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...
…Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…
NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)