Hãy giữ lấy những gì chúng ta đang có

09:15 19/03/2008
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.

Tháng 8 năm 1997, nhân dịp kỷ niệm 310 năm ngày thành lập đô thị Phú Xuân - Huế, Bảo tàng thành phố Huế đã tổ chức triển lãm các ngành nghề thủ công truyền thống của địa phương.
Chỉ là một người Huế bình thường đến xem triển lãm nhưng sau lần ấy tôi lại có một kỷ niệm thật khó quên! Tình cờ hôm đó, trong gian trưng bày và giới thiệu các ngành nghề thủ công của Huế xưa, tôi gặp mấy người khách Nhật Bản. Họ có vẻ rất ngạc nhiên khi biết Huế xưa đã từng có cả trăm nghề thủ công truyền thống với nhiều sản phẩm phong phú, tinh xảo và độc đáo. Tôi đã say sưa giới thiệu với họ về quê hương mình trong niềm tự hào khôn tả mặc dù kiến thức của mình còn có hạn. Thế rồi một câu hỏi đơn giản nhưng hết sức bất ngờ của vị khách Nhật nọ đã làm tôi lúng túng : "Tại sao lại ghi đây là những ngành nghề truyền thống Huế ngày xưa? Hiện nay Huế còn giữ được bao nhiêu nghề?
Câu hỏi ấy đã theo tôi mãi và vừa rồi nó lại trở thành nỗi ám ảnh khi chúng tôi về thăm lại làng Sình (tức làng Lại Ân, huyện Phú Vang). Đã là người dân xứ Huế, hẳn ai cũng biết đến làng Sình bởi truyền thống vật võ nổi tiếng. Có lẽ cũng rất nhiều người biết đến làng Sình còn vì truyền thống làm tranh lâu đời.
Xứ sở từ thế kỷ XVI đã có tiếng là trù phú, tấp nập "Xóm Lại Ân canh gà xào xạc, giục khách thương mua một bán mười" (Ô Châu Cận Lục-Dương Văn An nhuận sắc) kia lại khiến cho những kẻ vãng lai cuối thế kỷ XX phải bùi ngùi, xót xa. Cuộc sống của người dân làng Sình hãy còn quá nhiều khó khăn! Cả làng có 170 hộ với 928 khẩu, sống quần cư trên một dải đất hẹp. Nằm bên bờ sông Hương nhưng ruộng chỉ cấy được mỗi năm một vụ bởi từ đầu hè đến cuối thu nước sông đã bị nhiễm mặn! Nửa năm không làm ruộng, người dân ở đây phải xoay xở bằng đủ thứ nghề khác nhưng nghề làm tranh truyền thống thì chỉ còn 5-6 hộ gia đình mà thôi! Năm, sáu gia đình đổi nhau hơn chục mẫu khuôn để in tranh trên giấy Tây và sau đó tô tranh bằng phẩm màu hóa học!
Điều đáng nói hơn là đại đa số dân làng Sình, kể cả những người đang làm tranh hiện nay, đều đã quên mất các loại chất liệu và kỹ thuật làm tranh truyền thống! Giấy dó, bột điệp và các loại màu sắc dân giã được chế tác từ hạt mồng tơi, lá dung, lá bàng, hòe...v.v... đã trở nên xa lạ dù xưa kia chúng đã làm nên vẻ đẹp độc đáo của tranh Sình. Chúng ta lại sắp mất một nghề truyền thống! Đã đành tranh Sình là tranh phục vụ tín ngưỡng, đa số dùng để cúng bái một lần đốt đi nhưng việc đánh mất những gì là truyền thống của tranh làng Sình hôm nay cứ làm ta phải bâng khuâng, tiếc nuối.
Cũng may là ở làng Sình hiện nay, vẫn còn một vài nghệ nhân làm tranh vẫn còn ghi nhớ những gì mà tổ tiên của họ đã truyền lại. Tôi thật sự xúc động khi đến thăm gia đình nghệ nhân Kỳ Hữu Phước và được anh cho xem bộ đồ nghề cũ kỹ dùng để chạm khuôn in tranh do ông tổ anh để lại. Gia đình anh Phước cũng là gia đình còn giữ được nhiều khuôn in tranh nhất ở làng Sình hiện nay. Anh Phước tâm sự, gia đình anh cũng như tất cả những người còn làm tranh ở làng Sình đều muốn giữ gìn những kỹ thuật do cha ông truyền lại. Nhưng cái khó là tìm đâu ra nguồn giấy dó, và thêm nữa, các chi phí để lấy điệp, chế biến thành hồ, tìm và chế biến các màu truyền thống từ lá cây ngọn cỏ để có thể làm tranh theo đúng chất liệu và kỹ thuật truyền thống thật sự đã vượt quá khả năng của người dân Sình hiện nay. Cầm tấm tranh Bà mới in bằng chất liệu giấy dó đã phết hồ điệp (giấy do tôi mang về từ làng Đông Hồ để nhờ in lại bằng khuôn tranh làng Sình) trên tay, anh Phước cứ tần ngần mãi. Tranh mới in một lượt để lấy nét đen mà trông đã óng ả, bắt mắt lạ thường. Giá như có đủ gam màu truyền thống, tranh Sình hắn chẳng kém cạnh gì tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống của xứ Bắc, lại có nét rất riêng của tranh dân gian Huế!
Làm thế nào để giữ được nghề tranh ở làng Sình và khôi phục nguyên vẹn những chất liệu và kỹ thuật truyền thống nó đã từng có trước kia? Có lẽ đây là một vấn đề rất lớn đòi hỏi sự nỗ lực và trách nhiệm của rất nhiều người. Còn tôi, từng may mắn có dịp trao đổi với nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông, tác giả của cuốn Nghề và làng nghề thủ công truyền thống Huế, với nhà nghiên cứu Huỳnh Đình Kết, cán bộ của Bảo tàng thành phố Huế, người đã cùng tôi về thăm làng Sình, tôi thấy họ đều có chung suy nghĩ và sự đồng cảm về tình trạng của tranh Sình hiện nay. Để phục hồi nghề làm tranh ở làng Sình thì cách duy nhất là làm cho nó sống được với cuộc sống hiện tại. Phải tìm được nguồn cầu đủ mạnh để người làng Sình có thể làm tranh và bán tranh mà đảm bảo được cuộc sống. Trong tương lai, tranh Sình ngoài một bộ phận để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân (có thể làm bằng giấy Tây và phẩm hóa học như hiện nay), còn có một bộ phận khác sản xuất đúng theo chất liệu và kỹ thuật truyền thống để cung cấp cho khách du lịch, cho những người suu tầm, nghiên cứu.
Huế đã, đang trở thành một trung tâm du lịch của Việt và quốc tế với lượng du khách ngày càng tăng. Sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nước đối với  nghề tranh ở làng Sình cũng ngày càng gia tăng.
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
PHAN THANH HẢI
(Nguồn: SH 3.1999)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Chúng ta tưởng rằng, chúng ta tạo ra mạng xã hội là để chúng ta tự do hơn: tự do phát ngôn, tự do thể hiện quan điểm và suy nghĩ của mình, nhưng nhìn những điều đang diễn ra, chúng ta liệu có đạt được tự do thực sự và quan trọng hơn, là tìm kiếm được hạnh phúc?

  • Mấy chục năm qua, phê bình luôn được coi là khâu yếu nhất của nền văn nghệ. Nhẹ thì cũng là chưa theo kịp sự phát triển của phong trào sáng tác, không cắt nghĩa được sự phức tạp của các hiện tượng văn nghệ…

  • Có thể đội tuyển Nhật Bản không vô địch World Cup 2018 nhưng các cổ động viên của họ đã vô địch trên khán đài khi để lại ấn tượng đẹp về ứng xử cũng như hành động dọn sạch rác khu vực ghế ngồi.

  • Là một nghề gắn với viết lách, chữ nghĩa nên không có gì lạ khi nhiều nhà báo viết sách. Nhưng bản chất nghề báo là công việc liên quan đến thông tin nên sách của nhà báo ngoài sự đa dạng còn có một đặc thù riêng là luôn gắn với dòng chảy của thời sự, nhất là dòng thời sự liên quan đến chuyên môn của từng người.

  • Tạo tác và sử dụng mặt nạ là nét văn hóa vẫn sống động ở vùng Eo biển Torres của Australia. Những kiến thức lịch sử chứa đựng bên trong khiến chúng được mang đi trưng bày khắp thế giới. Nhưng điều đáng nói còn là câu chuyện ứng xử với truyền thống nơi đây.

  • Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao hơn nữa nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân trong việc chung tay xây dựng lễ hội; tăng cường công tác phối hợp với các tỉnh tham gia tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương-Lễ hội Đền Hùng hằng năm. 

  • Trước giá trị di sản và thách thức do biến tướng, thương mại hóa trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ, series phim Mẹ Việt - Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã chính thức ra mắt cuối tuần qua. Theo bà Đàm Lan, Chủ nhiệm dự án phim, mỗi thước phim là hành trình lắng đọng tâm thức, tìm về văn hóa truyền thống, tín ngưỡng nội sinh của dân tộc Việt.

  • Với những thay đổi về ưu đãi tuyển sinh, mùa tuyển sinh 2017-2018 số lượng học sinh, sinh viên thi vào ngành Âm nhạc dân tộc (ANDT) cũng tăng hơn những năm trước. Đây là tín hiệu mừng của sự thay đổi hợp lý ở khâu tuyển sinh cho các ngành “hiếm muộn”.

  • Nói đến nạn sách lậu, ai cũng biết vì đây là câu chuyện “xưa như Trái Đất.” Xong dường như câu chuyện xưa cũ này càng ngày càng dài, nội dung, tình tiết càng phức tạp và làm “phiền lòng” không chỉ cộng đồng yêu sách mà cả các cơ quan chức năng.

  • Tại hội thảo khoa học chuyên đề “Những tinh hoa sân khấu cải lương thể hiện qua các vai diễn về đề tài lịch sử” vừa tổ chức tại Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh TPHCM, những nghệ sĩ, nhà giáo, nhà lý luận phê bình sân khấu kỳ cựu, đều có chung nhận định: “Cải lương không thể chết!”.

  • “Ký ức Hội An” - chương trình biểu diễn thực cảnh hoành tráng trên một sân khấu mới được xây dựng rất quy mô tại cồn bắp Cẩm Nam (cồn Ga Mi), sông Hoài, TP Hội An đang vấp phải phản ứng của người dân, nhà nghiên cứu và những người yêu mến phố cổ này. Một lần nữa, câu chuyện về xung đột giữa bảo tồn và phát triển lại được đặt ra, mà nguyên nhân chính là không tôn trọng văn hóa bản địa.

  • Khi nhắc tới sân khấu kịch, người ta thường nghĩ tới ánh hào quang, trang phục lộng lẫy và hóa trang cầu kỳ. Thực tế, nghệ thuật kịch có thể được ứng dụng hiệu quả trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là giáo dục, qua đó kích thích các khả năng tiềm ẩn của học sinh.

  • “Thời gian gần đây, việc xây dựng, trưng bày tượng, biểu tượng có nội dung và hình thức không phù hợp với văn hóa Việt Nam tại một số cơ quan, đơn vị, khu du lịch và địa điểm công cộng, tác động không tốt đến môi trường văn hóa, thị hiếu thẩm mỹ của cộng đồng và xã hội.”

  • Xả rác bừa bãi nơi công cộng; đua xe, lạng lách; văng tục, chửi thề; chen lấn, xô đẩy khi tham gia các dịch vụ công cộng; phá hoại, bôi bẩn các công trình công cộng;…là những hình ảnh xấu xí của không ít người trẻ hiện nay, và trở thành nỗi trăn trở của nhiều lãnh đạo TP HCM trong quá trình xây dựng nếp sống văn minh đô thị.

  • Các công trình nghệ thuật công cộng là thành phần không thể thiếu trong quy hoạch và kiến trúc của một đô thị hiện đại. Thế nhưng “ranh giới” trong quan điểm, nhận thức tạo hình mỹ thuật cùng với tâm lý sính ngoại đã ít nhiều làm không gian công cộng biến dạng.

  • Ai đó nói, thời buổi giờ chỉ có ngành du lịch tâm linh, hay kinh doanh tâm linh là ăn nên làm ra, bỏ ra một đồng tức khắc có bốn đồng chảy ngược vào túi. Mà là tiền tươi, thóc thật, là tiền sạch nói như ngôn ngữ thời thượng - đồng “tiền hữu cơ”.

  • Ngày nay bất kì sự sáng tạo nghệ thuật ở phân mảnh nào cũng bắt đầu bằng tiền và kết thúc bằng tiền theo quy luật thị trường.

  • Năm hết. Tết đến. Người ta đôi khi chạnh lòng nghĩ “nên làm gì?”.

  • Do đời người có hạn, không ai có thể “trường sinh bất tử” nên có thể nói “quỹ thời gian” mỗi con người có giá trị cao nhất. Thời gian quy định sự sống của con người, buộc mỗi người phải biết sống. Người biết sống chính là người biết “sống nhanh, sống chậm”.

  • Có những thứ sẽ dần trôi tuột theo năm tháng, guồng quay của cuộc sống hiện đại có thể đã làm biến đổi phần nào giá trị của Tết. Nhưng nếu biết lắng lại, nghĩ khác đi thì Tết dường như vẫn luôn vẹn nguyên trong tâm thức mỗi người.