Hát bội

08:38 10/02/2009
ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.

Sách kiểm kê tên các tác gia, các vở tuồng, nhân vật, nghệ sĩ biểu diễn, các sách nghiên cứu, các tổ chức, đoàn, gánh hát bội và phân tích nghệ thuật, kỹ thuật hát bội, từ điệu hát, điệu múa đến áo mão hia râu. Danh mục có nhiều hình ảnh minh hoạ, là một tư liệu quý giá về nghệ thuật và lịch sử sân khấu cổ truyền trên bình diện văn học, xã hội và dân tộc học.
Hát Bội, hay Tuồng cổ, là một nghệ thuật lâu đời, độc đáo và phong phú nhưng đang thất truyền. Giáo sư Nguyễn Lộc và một số đồng nghiệp muốn ghi lại những tri thức qua sách vở, tư liệu còn lại, và qua những nghiên cứu, phỏng vấn tại chỗ, tại Quảng Nam năm 1985 và tại Bình Định năm 1992, là hai cái nôi của Hát Bội. Các cuộc khảo sát này được chính quyền địa phương giúp đỡ và được cơ quan Toyota Foundation tài trợ trong 3 năm để hoàn tất dưới hình thức Tự điển.

Điều ghi nhận đầu tiên là tên sách. Nhóm biên soạn dùng từ Hát Bội thay cho chữ Tuồng là danh xưng chính thức thịnh hành từ miền Bắc từ 1957 và toàn quốc từ 1975. Từ điển Văn học của Hà Nội in năm 1983 không có từ Hát Bội mà chỉ có chữ Tuồng, mà đề mục Tuồng lại do chính giáo sư Nguyễn Lộc chấp bút. Và ông không một lần dùng chữ hát bội  có từ cuối thế kỷ XVIII theo Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung tuỳ bút (chương Âm Nhạc)(1). Một chuyên gia về bộ môn này, ông Hoàng Châu Ký trong cuốn Sơ thảo lịch sử nghệ thuật Tuồng (1973), dày 200 trang chỉ một lần (tr. 55) “chú ý rằng Hát Bội là danh từ riêng chỉ nghệ thuật Tuồng. Ở Miền hiện nay nhân dân vẫn dùng như thế”(2). Cũng cần thêm rằng hát bội phát triển chủ yếu ở Đàng Trong, theo Huỳnh Lý: “Từ khi có cuộc phân tranh Bắc, ở miền Bắc tuy vua chúa có chơi tuồng nhưng không đặc biệt chăm sóc; chèo được diễn khắp nơi, tuồng chỉ sống ở triều đình và đô thị lớn và không được cải tiến nhiều”. “Ở miền Nam, không biết có phải vì Chúa Nguyễn cấm hay không, mà không có diễn Chèo. Trái lại, Tuồng được phát triển mạnh. Từ chúa Nguyễn trở về sau, lịch sử hát tuồng hay hát bội đã có tài liệu chính xác”(3). Nói khác đi, gọi Hát Bội chính danh là Hát Bội, giáo sư Nguyễn Lộc đã anh dũng trả của “xê da” cho “xê da”.

Trong chừng mực nào đó, Từ điển Hát Bội, thoát khỏi những quy ước thông thường của thể loại từ điển và đạt tới nhiều trang hào hứng, khiến người đọc có chút ít kỷ niệm về hát bội có thể sống lại được nghệ thuật này, dù cho nguồn say mê đã trở thành hoài niệm. Nghệ thuật hát bội, suốt hai thế kỷ vừa qua, đã thấm sâu vào tâm thức người dân nông thôn Trung Bộ và Nam Bộ, đã nhập vào lời ăn tiếng nói của dân gian. Những từ ngữ như: ta đây, nói tào, độn thổ, anh em họ Tạ, ngực đánh trống chầu, quýnh trống chiến, chạy như Tào Tháo (bị) rượt... là do ảnh hưởng Hát Bội. Từ điển Phương ngữ Nam Bộ (1994)(4) có ghi từ “uất trì” nghĩa là dốt nát là do tên Uất Trì Cung danh tướng thao lược trong Thuyết Đường không biết đọc. Những thành ngữ: ác như Đổng Trác, xấu như Chung Vô Diệm, nóng như Trương Phi... đến với dân gian qua sân khấu chứ không phải qua sách truyện, vốn hiếm hoi ở nông thôn... Miền Bắc dùng thành ngữ “truất ngựa truy phong” lấy từ truyện Kiều, thì miền Nam nói "hát bài Tẩu mã” lấy từ Hát Bội. Câu hát: “Đổng Kim Lân hồi còn nhỏ ... đi gánh cỏ nuôi mẹ già...”  lấy từ tuồng Sơn Hậu.

Bạn đọc thanh niên ngày nay, có nhiều trò tiêu khiển tân tiến và quốc tế, khó tưởng tượng được niềm vui cách đây nửa thế kỷ: “Chiều chiều đang đá banh, đang bơi lội, đang xem rao thuốc dán Sơn Đông, nghe tiếng trống, thanh la rao bảng hát bội cắc tùng xoà, xoà xoà lặp đi lặp lại, con nít thôi đá, bỏ bơi, không xem xiếc, chạy theo chiếc xe kéo tay hoặc những diễn viên vẽ mặt đeo râu, phục trang nhân vật hát bội đi xe đạp dể quảng cáo cho đêm diễn...” (5)
Từ điển Hát Bội
ngoài việc khôi phục lại một kỷ niệm và làm sống lại không khí sân khấu một thời, còn là một tư liệu văn học chính xác khi trích dẫn văn bản. Ví dụ nhóm biên soạn đã phân biệt tuồng Chinh Tây  thường được lưu diễn với vở Đường Chinh Tây, kịch bản còn lưu trữ tại Paris (tr.176). Hoặc phân biệt vở Trương Đồ Nhục của Nguyễn Hiển Dĩnh (1853-1926) với tuồng đồ Hồn Trương Ba da hàng thịt (vô danh) cùng một đề tài mà Lưu Quang Vũ sử dụng viết thành vở kịch nói hiện đại nổi tiếng, được lưu diễn nhiều nước, gần đây nhất là tại Mỹ (1998).

Nhóm biên soạn Từ điển Hát Bội có kiến thức chuyên và có khả năng phê phán và khái quát. Sau mỗi đề mục quan trọng như tuồng hát, nhân vật ... các tác giả đã đánh giá, nhanh gọn nhưng công bình và uyển chuyển. Ví dụ chê Chinh Đông là “câu chuyện dàn trải”, Chinh Tây là “dài đòng, rối rắm”. Và khen Ngũ hổ bình tây của Nguyễn Diêu “kết cấu chặt chẽ. Tác giả nhằm ca ngợi những tình cảm nhân bản nhất của con người như tình mẹ con, vợ chồng” (tr.398). Về nhân vật Địch Thanh, từ điển cũng nhận định xuất sắc: “Địch Thanh là tướng tài nhưng tài năng không giúp chàng chiến thắng mà tấm lòng thuỷ chung với bằng hữu, tướng sĩ và trong đạo vợ chồng, hiếu thảo với mẹ và trung nghĩa với vua đã giúp chàng làm nên sự nghiệp” (tr.128).  Ở đây, các tác giả  bấm đúng vào động mạch của Hát Bội, giải thích lý do đã đưa bộ môn sân khấu này vào lòng người: khán giả yêu thích Hát Bội vì những chi tiết đạo nghĩa nhân bản, chứ không phải vì nội dung nói chung là phong kiến và khuôn sáo.
Vua băng, nịnh tiếm, bà thứ lên chùa
Diệt nịnh, định đô, phò vua tức vị ...
Và ưu điểm lớn của Từ điển Hát Bội, ngoài tính cách chuyên môn, còn là một tác phẩm trọn nghĩa vẹn tình. Ví dụ những lời đằm thắm, 4 trang dài, dành cho Hội Khuyến lệ cổ ca thành lập tại Sài Gòn năm 1952 với các vị Đỗ Văn Rở (đốc phủ), Nguyễn Văn Quý... , thời “Pháp chiếm”.

Ngày nay mỗi khi nhắc đến Hội Khuyến lệ cổ ca, trong và ngoài giới hát bội, ai ai cũng đều nhất trí ca ngợi, tuy là một hội đoàn tư nhân, nhưng đã có công lớn trong việc góp phần gìn giữ  bản sắc dân tộc...” (tr.259). Sách báo trong nước xưa nay ít khi ca ngợi những đoàn thể “khác phe” như vậy. Từ điển, trong tinh thần đó, đã dành hơn một trang ưu ái cho nữ nghệ sĩ Trương Thị Dần, tài hoa nhưng tên tuổi ít người biết. (Tuy nhiên, đã có đề mục Trương Thị Dần thì nên thêm đề mục Nguyễn Diện, thường đóng chung với bà Dần, mà từ điển có nhắc tới ở mục Đoàn Tuồng Thuỳ Dương, tr. 160).

Dĩ nhiên, nói thiếu tên người nọ tên người  kia thì vô cùng. Làm từ điển ngôn ngữ, chỉ có việc đánh vần quốc ngữ abc, còn thiếu sót, nói chi đến việc làm từ điển nghệ thuật. Nói chung, thì nhóm biên soạn có phần lơ là với tuồng cổ miền Bắc. Có nhiều tên rạp hát lớn và nhỏ ở miền Trung, mà không có đề mục Quảng Lạc là rạp hát lớn ở Hà Nôị đã một thời cưu mang Tuồng cổ; hai chữ Quảng Lạc đã thành tính từ có nghĩa hát bội, phường chèo..  Dĩ nhiên là không có các rạp Sán Nhiên Đài hay Thắng Ý đã diễn tuồng Người Cá và Thiên Thai của Tản Đà (mà Khái Hưng có được xem và kể lại).  Những tác phẩm này không có trong từ điển, không hiểu vì kịch bản thất lạc hay vì nhóm biên soạn không xem như là Hát Bội. Có thể vì lý do này mà không có tên những vở tuồng đã diễn ở rạp Quảng Lạc năm 1920 như Ai giết người của Tô Giang hay Già kén kẹn hom của Phạm Ngọc Khôi, những tuồng “tân thời” về sau chuyển sang cải lương.

Nói rằng tuồng cổ không được phổ biến tại miền Bắc e không đúng, nhiều người còn nhớ bài thơ Mưa xuân (1936) của Nguyễn Bính kể chuyện “phường chèo làng Đặng”. Gọi là phường Chèo nhưng hát tuồng cổ “đóng Nhị độ mai” (bài Đêm cuối cùng, 1936).
Trong Tóc chị Hoài, 1943, Nguyễn Tuân có nhắc đến vở tuồng này:
Mai Kha ới hỡi Mai Kha
Rời nhau một bước nên xa mấy trùng...
Đi xem tuồng cổ, lúc họ bày cảnh Trùng Đài, có lúc cầm tay nhau khóc trên sân khấu. Hạnh Nguyên và Mai Sinh mỗi người đều đứng trên một cái ghế đẩu. Hôm nào anh thấy rạp tuồng ngoại ô quảng cáo diễn tuồng cổ về đoạn Nhị Độ Mai này, anh nhớ rủ tôi cùng đi với”(6).
Hồi ký của Song Kim còn ghi lại nhiều kỷ niệm lúc bà 12 tuổi, khoảng 1935: “Gánh tuồng cổ qua làng tôi, đóng lại, rồi diễn ngay ở đình làng... Khi tấm màn mở ra, lần đầu tiên tôi được nhìn thấy một thế giới kỳ diệu khác thường, với bao sắc màu tráng lệ...  Tiếng trống, tiếng thanh la vang lên, lôi cuốn những tốp người khắp hang cùng ngõ hẻm trong làng lũ lượt kéo tới. Chị bồng em, cháu gọi bà náo nức...”.(7)

Về sân khấu miền Nam, từ điển không có Vì nước quên nhà của Hồ Biểu Chánh, soạn chung với đốc phủ Bảy, đã công diễn và xuất bản ở Nam Bộ. Những tuồng này, dù không được phổ biến cũng nên ghi lại vì tính cách lịch sử và văn học. Lạ là không có cả Mạnh Lệ Quân, vừa là nhân vật vừa là kịch bản, phải diễn nhiều đêm và phổ biến từ Nam ra Bắc (tên nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có lẽ do tên một nhân vật trong tuồng tên Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Gia đình ông Tường họ Hoàng Hữu nổi tiếng ở Quảng Trị). Hai cha con La Thành La Thông nhân vật trong các vở La Thành Thọ Tiễn, La Thông Tảo Bắc không có ở đề mục, nhưng có rải rác trong sách. Về tuồng Thuyết Đường, gọi nhân vật “Thúc Bảo tự Tần Quỳnh” là nói ngược. Phải nói Tần Quỳnh tự Thúc Bảo. Do đó đề mục Thúc Bảo (nhân vật, tr. 539) không chính xác, phải xếp vào Tần Thúc Bảo.
Về vở Nguyễn Chúa phù Lê Hoàng (1927) của Nguyễn Thúc Khiêm, diễn nhiều đêm, đăng trên Nam Phong, tưởng cũng nên thêm phần tiểu sử tác giả chết trong ngục Sơn La mấy tháng trước 1945. Nguyễn Thúc Khiêm là tác giả khoảng 40 tác phẩm gồm có tuồng, chèo, cải lương và một thiên biên khảo. Hát Tuồng và hát Chèo trên hai vạn chữ(8).

Bên cạnh những thiếu sót khó tránh được, còn có những chi tiết dài dòng, không cần thiết. Ví dụ về Ngụy Khắc Đản thiếu năm sinh (1917) và thừa việc con trai “làm quan đến chức tri huyện” (!); ông là tác giả tuồng Kim Vân Kiều, in năm 1896 về sau nhà Khai Trí có tái bản tại Sài Gòn (1969). Mục Nguyễn Bá Nghi cũng dài dòng và thiếu năm sinh (1807).
Về các tác gia hiện đại, Hoàng Châu Ký chiếm 3 trang, ngang với Tống Phước Phổ, Nguyễn Hiển Dĩnh, gồm nhiều chi tiết vô bổ: như ông vào đảng năm nào, mấy lần làm huyện uỷ, chưa kể những lần làm chủ tịch huyện (!). Nhưng vẫn thiếu tác phẩm Tuồng Cổ trong đó ông sưu tầm giới thiệu hai vở Sơn hậu Tam Nữ Đồ Vương(9) là những văn bản ngày nay khó kiếm. Ngoài ra nên thêm: Hoàng Châu Ký còn là một nhà thơ, thậm chí bản chất là một nhà thơ; Ông rất tự hào về điều này và ... thỉnh thoảng cũng có nói ra(10). Thơ ông cụ hay và mới, như bài Trước giờ khai mạc (1950)(11). Cuối cùng, Từ điển Hát Bội nên có một chương dẫn nhập có tính cách khái quát và tổng hợp, nói qua về lịch và những đặc trưng, quy ước của hát bội, để hướng dẫn độc giả và khán giả.
Chúng tôi nêu lên một vài thiếu sót nhỏ nhặt, không tránh khỏi của Từ điển Hát Bội, những sơ sót do thiếu tư liệu hay do sự gạn lọc, ý thức và vô thức của trí nhớ, để chứng tỏ với Ban Biên tập là: những người xa đất nước vẫn đọc các anh cặn kẽ, và giới thiệu tâm huyết. Chứ không làm cái chuyện mà Nguyễn Tuân từng gọi là “ tào Bắc đẩu”.

Từ điển Nghệ thuật Hát Bội Việt Nam “giáo đầu” bằng chữ Ái Châu nhân vật nữ trong Kim Thạch Kỳ Duyên của Bùi Hữu Nghĩa và kết thúc với yêu cá nhân vật trong Lý Phụng Đình: Nếu Từ điển không đề xuất thì chúng ta không biết đến hay không nhớ ra. Tra chữ “nam”, từ Nam Xuân đến Nam Ai có 13 điệu hát nam. Bên cạnh 11 điệu hát khách. Ngoài ra riêng chữ HÁT có 28 đầu vào. Tra chữ “kép”, ta biết có 21 loại kép, từ kép câu đến kép xanh. Từ đào ác đến đào võ, có 13 loại đào (nhưng vẫn sót đào thương!). Có 8 kiểu  mão, 8 kiểu râu, được minh hoạ bằng hình màu in rõ nét.
Từ “Trống-Mái” chiếm hơn hai trang, vì bắt nguồn từ quan niệm nhị nguyên về vũ trụ “trong nghệ thuật hát bội Trống Mái trở thành một trong những nguyên tắc cấu trúc của mọi hình thức nói lối cũng như các làn điệu có nhịp và không nhịp.. Một cấu trúc được hoàn chỉnh bao giờ cũng phải hội đủ cả hai yếu tố Trống Mái” (tr. 596); rồi các tác giả phân tích những câu, những vế, những phần Trống đối lập với Mái qua nhiều câu, điệu hát, khiến ta không khỏi liên tưởng đến lý thuyết ngữ học của Féc-đi-năng đơ-Xốt-Xuya (Ferdinand de Saussure) “một đơn vị cấu trúc ổn định, trọn vẹn hoàn chỉnh là một đề mục xuất sắc”.

Những tiết mục đề cập đến phong tục Hát Bội, thờ cúng thần linh, như hát án để tế cá voi đưa người đọc vào xã hội học và dân tộc học làm nghĩ đến những công trình Lê-vi-Strốt (Levi Strauss). Từ điển, ngoài giá trị kỹ thuật chuyên môn, đằng sau những ưu hoài và dư âm tình cảm, còn mở nhiều nẻo đường mới vào những khoa học hiện đại, đồng quy về nhiều hướng nghiên cứu nhân văn, nhất là dân tộc học đang hiện hành trên thế giới. Lý thú là các tác giả không cố tình, không làm dáng, “tân trang” trí  thức cho hợp thời trang hiện đại. Từ điển Hát Bội là một buổi “nói tuồng” không hoá trang.

Nhìn từ nước ngoài, chúng tôi mừng cho văn học trong nước có cuốn Từ điển Nghệ thuật Hát Bội Việt . Sách vui và bổ ích, nhẹ nhàng nhưng hàm súc, bình dị mà uyên bác. Đọc chơi cũng vui, đọc thiệt càng vui. Đọc xong xếp vào tủ sách không e phí chỗ và ngượng ngùng với khách đến chơi nhà, thuộc loại “bác đến chơi đây ta với ta”.
Paris , 20/4/2000
  Đ.T

(nguồn: TCSH số 192 - 02 - 2005)

 



--------------------
(1) Phạm Đình Hổ, Vũ Trung tuỳ bút, Hà Nội,  Văn học, 1972, tr. 57.
(2) Hoàng Châu Ký, Sơ thảo lịch sử nghệ thuật Tuồng, Hà Nội, Văn hoá, 1973, tr. 55.
(3) Huỳnh Lý (nhóm Lê Quý Đôn) Lược thảo văn học Việt Nam, Hà Nội, Xây Dựng, 1957, tr. 89-90.
(4) Nguyễn Văn Ái, Từ điển Phương ngôn Nam Bộ, NXB TP.Hồ Chí Minh, 1994, tr. 593.
(5) Trương Đình Quang, báo Đất Quảng số 113, tháng 5/1993, Đà Nẵng, tr. 78.
(6) Nguyễn Tuân, Tuyển tập I, NXB Văn học Hà Nội, 1981, tr. 243.
(7) Song Kim, Cuộc đời sân khấu của chúng tôi, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1983, tr. 9.
(8) Nguyễn Thúc Khiêm, Chí Sĩ, Nghệ sĩ, Hà Nội, Văn học, 1997, 780 trang.
(9) Hoàng Châu Ký, Tuồng Cổ, Hà Nội, Văn hoá, 1978.
(10) Hoàng Châu Ký, « Tôi làm thơ và tự đánh giá có bài
khá hơn một số thơ trên báo chí lúc bấy giờ”, báo Đất Quảng số 113 đã dẫn, tr. 13.
(11)  Dọc Trường Sơn, tập thơ nhiều tác giả, Hà Nội, NXB Văn Nghệ, 1957, tr. 49-51.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).