Hàm Nghi yêu dấu

15:17 07/07/2015

BÙI KIM CHI 

Vào Thành nội, hai con đường nhỏ hai bên hông trường trung học Hàm Nghi có lá phượng bay, có vòm nhãn che đường làm nền cho ngôi trường uy nghi, bề thế nằm ở giữa. Trước cổng trường có con đường nhỏ chạy ngang qua với hai hàng mù u lấp lánh nắng vàng tươi chụm đầu vào nhau nghe và thủ thỉ chuyện học trò.

Trường trung học Hàm Nghi năm xưa - Ảnh: hamnghihue.com

Đây là ngôi trường mang tên vị vua yêu nước triều Nguyễn, tiền thân là trường Quốc Tử Giám của Kinh đô Huế. Trường được thành lập năm 1955. Đến nay đã tròn 60 năm. Sáu mươi năm với những đổi thay đáng kể của không gian lẫn thời gian nhưng trường vẫn giữ nguyên nét cổ kính; âm thầm, lặng lẽ dõi theo và ghi dấu sự thành đạt của bao thế hệ học trò Hàm Nghi.

Nhớ một sáng cuối xuân tôi trở lại Hàm Nghi - ngôi trường thân quen từ thời con gái với những chiều thu sau giờ con trai Hàm Nghi tan học, tôi cùng M.H con gái thầy hiệu trưởng Hồ Văn Lê (nhà ở trong trường) lang thang trong sân trường nhìn và đếm lá bàng rơi... Một chiếc lá thẳng đứng... một chiếc lá vàng lãng đãng trong gió chiều bàng bạc... một chiếc lá chao nghiêng với màu nâu pha đỏ, buồn... Tất cả lặng lẽ nằm yên trên đất. Cơn gió muộn cuối mùa chợt đến cuốn tất cả vào những nơi vô định. Hai đứa con gái cùng thổn thức. Một chút lãng mạn đáng yêu. Trường học của tôi thời con gái chỉ có lá phượng bay không có cảnh lá bàng ngập ngừng rơi. Sân trường đang xuân lá bàng xanh mướt giữa nắng xuân bắt đầu vào hạ. Hoa nắng xôn xao, rộn ràng trên sân. Cô gái ngày xưa không còn lang thang đếm và nhìn lá bàng rơi nữa mà... bắt đầu đếm thời gian làm cô giáo Hàm Nghi. Tôi chuẩn bị tư thế nhập cuộc với thế giới học trò chỉ toàn là con trai. Cô giáo cố gắng tạo cho mình một “thế đứng” vững chãi trước học trò. Mà cô nghiêm thật. Ít nói. Để dè chừng. Lớp cô làm hướng dẫn, lớn có, bé có. Nhưng tất cả đều sợ cô. Cô giáo trẻ nhưng nguyên tắc. Xin thêm điểm. Không cho. Lớp trưởng Trần Ngọc Phú học rất giỏi, ngoan hiền, mặt mày sáng sủa, giúp cô rất nhiều công việc trên lớp nên được cô thương, cô quý. Đặc biệt chữ viết của Phú rất đẹp. Cô ngưỡng mộ. Nguyễn Xanh da ngâm đen, lớn con. Nếu có ai “ăn hiếp” cô thì Xanh có thể bảo vệ được. Thế là cô yên tâm. Lê Hội có duyên, hát hay. Thường hát cho cô và các bạn nghe. Phong cách điệu nghệ nhưng dễ thương. Bước chân lên bục em nhìn cô - cười. Em hát cô hí! Bài chi cô hè? Rất ngây thơ. Tôi cười. “Tùy em”. Giây phút đó cả cô và các bạn lắng lòng theo tiếng hát trầm ấm của Lê Hội. Rất hay và truyền cảm. Lê Nguyên Chi là một chú tiểu. Thường hay bị các bạn chọc ghẹo. Tôi phải nhẹ nhàng dỗ ngọt. Hồi đó, vào lớp dạy thấy chú tiểu Nguyên Chi mặc đồ tu là tôi thương. “Tội nghiệp còn nhỏ quá mà phải đi tu”. Tôi nói với chị Hương Trà. “Phước duyên đó em”. Tôi dạ. Phạm Trung Long cao, điềm đạm, còn nhỏ nhưng có dáng vẻ nghệ sĩ, hay đạp xe đạp đi ngang nhà cô. Chỉ nhìn, không dám vào. Một lần Long được làm sơ mi môn Tập Làm Văn Nghị Luận Văn Học, tôi vui, tặng cho em tập nhạc của Tôn Thất Lập. Mừng lắm. Sau mấy chục năm không hiểu Long còn giữ lại không hay nó đã “buồn bã đi cùng thời gian”. Ngô Hiền rất nhỏ con. Cô nói. Răng ốm rứa. Dạ, em ăn ít thưa cô. Cô phán, không phải, em nghịch nên ốm. Hiền le lưỡi. Trần Đức Sơn rụt rè, ít nói. Hay lấm la lấm lét nhìn cô giáo vẻ sợ sệt. Ở một lớp khác có Dương Hội. Rất nhanh nhẹn. Trên lớp, cô nhờ việc gì là nhiệt tình làm ngay. Đôi lúc có nghịch nhưng là cái nghịch trẻ con. Chấp nhận được. Nguyễn Ngọc Bính ở cạnh nhà cô. Hiền lành. Cô hay nhờ Bính mang tập về nhà cho cô. Ngoài giảng dạy môn Văn thầy Trần Đức Võ, giám học còn phân cho tôi dạy môn Công Dân Giáo Dục lớp 6. Thế là ngoài tên của mình, tôi còn có tên “Cô Công Dân Giáo Dục”. Đó là tên gọi mà các em học trò lớp 6 đã đặt tên cho cô giáo. Thật xôn xao khi “Cô Công Dân Giáo Dục” vào lớp. Lớp này có Mai Văn Bôn và Nguyễn Minh Tuấn. Bôn và Tuấn đều học giỏi. Bôn có nước da trắng hồng, mắt sáng lanh lợi. Tuấn tròn người, ít nói, miệng cười có duyên. Cô gọi trả bài, hay đứng khoanh tay trả lời rất lễ phép. Một lớp khác nữa, hình ảnh của em Khai, tôi quên mất họ đã ghi dấu trong tôi tình cảm đặc biệt. Mãi đến hôm nay tôi vẫn còn nhớ. Tập Làm Văn bị 1 điểm. Em nhỏ con, trắng trẻo, dễ thương lên đứng mãi ở bàn giáo sư đặt trên bục ciment cao. Khai đứng ôm một chân bàn, khóc. Khóc mãi. Xin cô cho thêm điểm vì sợ về nhà ba đánh. Cô thương nhưng không cho. Đảm bảo công bằng. “Lần sau em sẽ cố gắng”. Cô cũng không cho. Có lẽ lúc đó em ghét cô lắm phải không Khai? Nhưng rồi những ngày sau đó cô đã để công dành riêng cho em một khoảng thời gian sau khi tan học để hướng dẫn phương pháp Tập Làm Văn tả cảnh. Khai còn nhớ không? Còn Phạm Văn Sang và Lê Viết Ngọc tôi không nhớ là học với tôi lớp mấy. Hai em ngồi cạnh nhau. Thân nhau. Cả hai cùng ở trên một con đường và hai người cha đều là bác sĩ. Sang to con, mập, đen, nghịch ngầm nhưng không qua được mắt cô. Ngọc hiền lành, nước da trắng, mắt đeo kính cận. Cả hai đã bắt đầu ra vẻ thanh niên.

Học trò Hàm Nghi thời tôi dạy cách đây hơn 40 năm là các em học sinh chăm học, có em học rất giỏi. Vẫn có vài em nghịch nhưng là cái nghịch trẻ con và dễ thương của tuổi học trò. Không có trường hợp vô lễ với thầy cô. Tôi hay giải quyết: “Thưa cô, thằng Xanh kêu tên ba em”. “Thưa cô, thằng Hiền kêu em, mà hắn không kêu tên em lại kêu tên ba em”. Tức cười vì nhớ hồi nhỏ đi học mình cũng bị các bạn kêu tên mẹ mình. Tôi cố trấn tỉnh và nhẹ nhàng: Ui cha, bậy nà. Lần sau đừng kêu bạn như rứa. Vô lễ với người lớn đó nghe. Vậy là yên. Học trò học giỏi, chăm ngoan nên giáo sư hướng dẫn cũng khỏe chỉ toàn tâm toàn ý chăm lo việc học cho các em. Tình cảm của thầy cô và học trò dành cho nhau cứ thế lớn dần, lớn dần cho đến một ngày... trường Trung Học Hàm Nghi không còn nữa. Tôi bùi ngùi tiếc nuối. Theo thời gian, học trò Hàm Nghi sau này có rất nhiều người đỗ đạc cao. Đó là những tiến sĩ, bác sĩ, giáo sư, luật sư, kỹ sư, doanh nhân giỏi, có tâm có đức; những nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử nổi tiếng. Ôi, Hàm Nghi ơi! Rất đỗi tự hào. Trường xưa với đồng nghiệp, học trò thân thương đã làm cho tôi nao lòng mỗi khi có dịp trở về Huế và đi ngang qua. Nhìn. Lòng buồn bã mơ về quá khứ đã xa đang kết thành nỗi nhớ trong tôi. Những cây bàng ngày xưa không còn dáng vẻ điệu đàng dưới mắt tôi; âm thầm gọi hồn cô giáo trẻ dõi mắt theo những tán lá xanh rờn ôm ấp một khoảng không gian êm đềm, dịu ngọt của những mùa xuân rồi tiếp mùa hạ ghé qua. Những chiều thu bàng bạc lá bàng rơi và đông về, lạnh lùng mưa thả bong bóng dập dìu trên sân. Tôi vẫn như còn cảm nhận được cảm xúc rạo rực với những giây phút riêng tư đứng nhìn lá bàng tinh nghịch đuổi nhau trên sân trường...
 

Cầm tấm giấy mời “Hội ngộ 60 năm Trường Trung Học Hàm Nghi - Huế” trên tay do Ban Liên Lạc Cựu Giáo Sư và Học Sinh Hàm Nghi ở Huế gửi vào tôi bồi hồi, xúc động. Chương trình Lễ hội thật hoành tráng. Hàm Nghi ơi, Hàm Nghi ơi! Tôi sẽ về. Sẽ trở về. Nhất định về... 60 năm trôi qua với những buồn vui của nhiều thế hệ thầy cô và học trò. Đây là dịp “Về nguồn”. Tôi bỗng nhớ đến chị Đoàn Thị Yến, chị Nguyễn Thị Hương Trà, bạn Công Tằng Tôn Nữ Ái Hoa, một thời cùng tôi dạy ở Hàm Nghi. Các chị đã giã từ cõi tạm. Ở một nơi nào đó, mong các chị trở về trường Hàm Nghi để được cùng nhau ngồi trên những bậc đá thanh ở Di Luân Đường. Nhớ những buổi chiều tắt nắng, chị em mình ngồi nhìn mây màu khói hương bàng bạc ngang trời trong tiếng chim ríu ra ríu rít gọi đàn trên những cây bàng lá đỏ. Chị Yến nói: “Nơi đây, tổ ấm của tụi mình”. Nhất định các chị phải về. Phải trở về trong ngày kỷ niệm 60 năm thành lập trường...

Huế lễ nghi. Huế hiếu học. Học trò Hàm Nghi lễ phép, học giỏi, thành đạt. Huế có tình, có nghĩa. Huế lãng mạn, Huế nên thơ cho nên Huế có nhiều tình sử chuyện học trò. Hàm Nghi rộn rã tình thầy cô, tình bạn bè, tình yêu - thứ tình muôn thuở của tuổi học trò không bao giờ nhạt phai. Nhớ Hàm Nghi, tôi nhớ đồng nghiệp, nhớ học trò, nhớ mái ngói rêu phong cổ kính của Di Luân Đường, nhớ hai dãy lớp học cũ và mới đan kết tình thầy trò ngan ngát giữa không gian trầm mặc bên trong thành quách rêu mờ của một thời đã xa. Hàm Nghi yêu dấu, nơi đã giữ lại trong tôi một thời làm cô giáo, thấp thoáng nụ cười xinh bên đàn học trò con trai vừa học giỏi vừa chăm ngoan nhưng đôi lúc cũng “nghịch ngầm” đáng yêu.

B.K.C  
(SDB17/06-15)



 




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THANH TÙNG  

    Nhạc sĩ Phạm Duy không phải người Huế, nhưng qua những lần dừng lại ở Huế ông đã cho ra đời nhiều giai điệu trữ tình và nhiều hình ảnh đẹp, sâu lắng, trong đó thấp thoáng nhiều bóng hồng xứ Huế.

  • NGUYỄN QUANG HÀ  

    Để giữ gìn thành phố Huế, chính quyền miền Nam tổ chức nhiều đồn bốt để bảo vệ. Ở phía Nam Huế có đồn An Cựu gần núi Ngự Bình.


  • HUY CẬN - XUÂN DIỆU

                        (Trích)

  • DƯƠNG PHƯỚC THU  

    Ngày 22/7/2021, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức buổi tọa đàm khoa học lấy ý kiến cho Đề án xây dựng Phòng Truyền thống Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay.

  • DƯƠNG HOÀNG  

    Trải qua những năm tháng đấu tranh giải phóng dân tộc tập hợp dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, nhân dân Thừa Thiên Huế đã từng bước được rèn luyện, thử thách trong gian khó và cùng lớn lên với những tên gọi, những hoạt động, nhiệm vụ cũng thay đổi qua từng giai đoạn để phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tại của phong trào cách mạng.

  • HÀ KHÁNH LINH

    Còn sống sót sau 30/4/1975 chúng tôi thường tìm đến nhau dẫu có người thân thể không còn nguyên vẹn, hoặc mắc một số bệnh nào đó do di chứng của chất độc hóa học màu da cam Diocine của Mỹ, hoặc bị sốt rét ác tính, hoặc bị tra tấn khi rơi vào tay giặc…

  • NGUYỄN QUANG HÀ  

    Chừng 9 giờ tối anh em du kích ra đón chúng tôi ở nghĩa trang làng. 

  • PHƯỚC HOÀNG   

    Ngày 23 tháng 8 năm 1945, tại sân vận động Huế, trước sự chứng kiến của hơn một vạn người, nhà thơ Tố Hữu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên tuyên bố, chính quyền đã về tay nhân dân, đồng thời ra mắt Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời Thừa Thiên.

  • MẶC HY

    (Nhớ về nhạc sĩ Nguyễn Hồng và các bạn văn nghệ hy sinh 40 năm trước)

  • MINH ĐẠO

    Khi tôi viết nhưng dòng này, tôi không còn nhìn thấy gì nữa. Bóng tối bao phủ lấy tôi đã 10 năm qua rồi.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU  

    Nhà báo - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh Võ Giáp, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911, tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho yêu nước, mà thân phụ là một “thầy đồ” trường huyện.

  • XUÂN HOÀNG
              Hồi ký

    (Trích Chương V, tập II - "Trường tư thục Thuận Hóa")

  • PHẠM PHÚ PHONG    

    Người già thường hay nghĩ ngợi về quá khứ. Không biết có phải vì thế hay không mà khi đọc lại Biên niên Sông Hương[1], tôi bỗng nhớ đến một cuộc hội thảo về Tạp chí Sông Hương diễn ra cách đây gần tròn 37 năm.

  • VŨ THỊ THANH LOAN  

    1. Lemur Nguyễn Cát Tường là một họa sĩ trẻ tài năng của khóa IV trường Mỹ thuật Đông Dương (1928 - 1933). Sau khi tốt nghiệp, ông thường xuyên cộng tác với báo Phong Hóa, Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Chiếc áo dài đầu tiên đời tôi được mẹ may vào năm tôi lên Đệ Thất (lớp 6 bây giờ). Biết nói sao niềm vui sướng của tôi khi lần đầu mặc chiếc áo dài ấy!

  • TRẦN TRUNG SÁNG  

    Khoảng mùa đông 1970 - 1971, khi đang còn đang học lớp 10, trong một chuyến phiêu lưu lãng mạn và rồ dại nhất của tuổi thiếu niên, tôi có lần lạc bước đến một xóm nhỏ gần bên cầu Gia Hội, và đã gặp ông: họa sĩ Lê Vinh, người họa sĩ vẽ tranh xi-nê lừng danh nhất xứ Huế thời bấy giờ. Lúc này, ông chừng độ tuổi 30, người dong dỏng, tóc vuốt ngược, sơmi màu, quần jean, giày cổ cao, dáng dấp phong trần, như bước ra từ màn bạc!

  • HOÀNG PHƯỚC   

    Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám đã thành công rực rỡ, tiếp đó, ngày 24 tháng 2 năm 1946, cử tri toàn tỉnh Thừa Thiên phấn khởi nô nức đi bầu Hội đồng Nhân dân tỉnh và Hội đồng Nhân dân thành phố Huế. Đây là ngày hội lớn chưa từng có trong lịch sử của toàn thể Nhân dân Việt Nam sau ngày đất nước được độc lập.

  • TRẦN NGUYÊN HÀO  

    Năm 1946, lần đầu tiên toàn thể người dân Việt Nam được hưởng và thực thi quyền làm chủ, tự do lựa chọn bầu ra những người đại diện xứng đáng gánh vác công việc chung của đất nước; cùng với đó là những tư tưởng về dân chủ, pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại bài học giá trị cho mai sau.