Hải Bằng nhà thơ xứ Huế

16:24 20/04/2009
HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

Nhà thơ Hải Bằng

Tôi có trong tay tập Trăng đợi trước thềm ấn phẩm mới nhất của nhà thơ Hải Bằng viết trong mười năm trở lại (1977 - 1987). Mười lăm trong số năm mươi bài thơ được ghi mốc năm 1987 (trừ một số bài không ghi ngày tháng). Trong khi ba năm 1977, 1979, 1980 tác giả chỉ chọn ba bài? Bằng số liệu, hẳn Hải Bằng có ý chứng tỏ với bạn đọc rằng: Mới đang được chính tác giả thể nghiệm?

Đọc Hải Bằng, tôi nhận ra cái mới của thơ anh khởi sự từ nội dung bài thơ, đó là cái mới từ trong vận động thao thức tư duy cảm xúc:
Có thật là ta khóc phải không
Nghe như giọt nắng nhói trong lòng
Một mai ngã xuống chân thành cũ
Thơ vẫn gọi đò trên bến sông
                        (Đêm lá rơi - 1987)
Dòng máu hoàng tộc sinh ra Hải Bằng. Dẫu qua bao thăng trầm, lòng nhà thơ vẫn hướng về nguồn cội. Nhưng Hải Bằng không khóc vì lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Anh yêu Huế với tình yêu của một công dân Hải Bằng. Nếu mai kia ngã xuống chân thành cũ cha ông, thì hồn thơ vẫn thao thiết như tiếng gọi đò dân gian bên dòng sông Hương. Tư duy thơ không bó lại, cảm xúc mở, lan rộng, trong khi hình thức câu thơ vẫn nền nếp kiểu Hải Bằng.

Hay như:
Khi được cầm cánh hoa thơm
Thì mùa xuân đã tan vào mơ ước
                        (Dư âm ngày sinh - 1987)
Và:
Mỗi năm qua nếu có chờ nhau
Gió thu về ngoái lại mùa mưa trước
Cái bóng trời vẫn thập thò sau dấu bước
                        (Thơ không đề - 1987)

Xu thế chuyển đổi như cơn lốc ào tới, vậy mà khi đọc anh ta gặp sự điềm tĩnh đến lạ lùng. Hải Bằng không ầm ĩ. Tính quyết liệt trong thơ anh không toát ra từ ngôn ngữ mà ở chiều sâu của nội tâm. Giữa lúc đồng nghiệp tung ngòi bút vào mọi vấn đề xã hội, những cảnh trái ngược, bi kịch, những số phận khủng khiếp... thì Hải Bằng cứ thong thả trong sự phóng túng riêng mình: Tiếng cu cườm gáy trưa mùa hạ / Qua hơi thở nghe xạc xào tiếng lá / Mở mắt nhìn / Vườn đầy bóng em xanh (Và không gian - 1987).

Ngược trở lại tám, mười năm trước, Hải Bằng dường như không khác gì hôm nay.Cũng chất điềm tĩnh, trắc ẩn mà khoáng đạt, đôi khi trĩu nặng nỗi đau buồn. Đấy là nỗi buồn đằng đẵng hàng chục năm trong trạng thái văn học ức chế, co cụm, ít nhiều bị tước mất quyền sáng tạo của chính nó. Hải Bằng từng lang bạt nhiều miền quê trong vòng quản lý, theo dõi vì vướng vào lớp nhà văn Nhân văn Giai phẩm. Bốn khúc trong bài Khúc dân gian viết năm 1979, tiêu biểu cho một hồn thơ trăn trở, day dứt. Mảnh vườn - biểu tượng của tinh thần nhân văn mỗi khi bị chặt phá không thương tiếc, thì kết quả còn lại là sự cô đơn:
Ngày ngày
Vẳng nghe
Vườn nhà bên chim hót
Anh nhớ
Cây đào
Cây ổi
Cây chanh

Dầu ở cảnh ngộ bi đát nào, không vùi lâæp nổi khát vọng sôi cháy trong con người Hải Bằng. Đời người và đời thơ anh như bóng với hình, long đong, chìm nổi, bệnh tật. Đang nghe tin anh ốm nặng, chưa kịp tới thăm đã thấy anh đột ngột hiện ra giữa bạn bè khoẻ khoắn, hài hước, rồi giận dỗi vô cớ, phẫn nộ quá đáng. Thơ cùng anh trên cái đà đó mà thành:
Vẫn còn mơ
Một thời trong mắt nhỏ
Một cành hoa quá khứ
...
Vẫn còn yêu
Sợi tơ trời
Bay trong mùa hạ
...
Vẫn còn nghe
Con chim gì nó hót
Ở trong vườn...
                        (Dư âm còn - 1977)

Đứng giữa khoảng thời gian của hai đầu mốc sáng tác, tự nó lý giải công tâm thơ Hải Bằng. Đã có người đưa ra câu nói lấp lửng: “Tất cả phải thay đổi để không có gì thay đổi cả”. Đó là ý nghĩa về phương diện lý luận của sự trở về với bản ngã. Đối với các nhà văn xu thời, sáng tác nhằm mục đích minh hoạ, chạy theo sự kiện, chuộng “mốt” cần phải cải tổ thực sự để trở lại với chân giá trị. Còn Hải Bằng giữ nguyên bút pháp, cách chọn lựa suy nghĩ, sắp xếp cảm xúc, có nghĩa đổi mới của anh là sự khẳng định con đường thơ của mình đã đi là đúng đắn. Không ai ngờ nghệch thay giá trị đích thực của mình để lấy giá trị giả dối, vô bổ. Bản lĩnh kiên định về xu hướng sáng tác của một số nhà văn đã đặt họ vào vị trí không uổng. Hải Bằng phát biểu điều đó bằng hai mặt của cuộc đời: sống và thơ.

Hai tháng sau tổng khởi nghĩa, ngày 10-10-1945 mới mười lăm tuổi Hải Bằng đã từ giã quê hương theo kháng chiến. Khi sống ở chiến khu, lúc về đồng bằng, ở thủ đô hay trở lại nông thôn, bất kỳ nơi nào Hải Bằng luôn giữ phong độ của một chiến sĩ từng trải. Tính kiên trì chịu đựng, dũng cảm trong nghệ thuật có lẽ bắt nguồn nơi con người chiến sĩ của anh. Từ những bài thơ nổi tiếng đầu như Em nữ cứu thương người Pháp trong chống Pháp, đến Cồn cỏ thời chống Mỹ cho tới sau này, Hải Bằng chưa hề mệt mỏi; anh đi đến tận cuối con đường thơ của mình để chiêm nghiệm:
Đứng cuối con đường mới nhìn rõ nắng khơi
Lắng đợi chờ mặt trời đưa tiễn
Và để:
Giữ trăm năm chuyện cũ người đời
                        (Cuối con đường - 1983)
Một câu nói và cũng một câu thơ, lặn sâu trong tim người đọc, đánh thức quá khứ của đời người bao buồn vui, bao hạnh phúc, cơ cực.

Dù phải sống nhiều năm cách biệt quê hương, nhưng Huế - Bình Trị Thiên trong anh vẫn là tâm điểm của con mắt tìm về: Ai đi tới Huế rồi xa Huế / Để lại mùa trăng đợi trước thềm (Lưu luyến). Với Đồng Hới quê người bạn đời đồng thời là quê hương thứ hai của anh: Thuở nhìn xuống nước gặp nhau / Đò qua sông / Để lại trong ta mái chèo làm nên cái xoáy... Chỉ riêng nói về mưa Huế Hải Bằng đã có trên trăm bài, mỗi bài là một cảm xúc mới mẻ. Duy điều đó có thể gọi anh là nhà - thơ - xứ - Huế với nghĩa đúng đắn. Hải Bằng rất nhiều bạn, không cứ gì bạn văn chương. Tình bạn có nóng, có lạnh thất thường, song bao giờ anh cũng thú nhận “tình bạn đã vây lấy thơ mình”. Âu cũng là hạnh phúc.

Đọc anh sự bình giá, khen chê khác nhau. Thơ anh có lúc hay, lúc bằng phẳng, có thành công và có cả thất bại. Nhưng thất bại hay thành công, hay hoặc chưa hay đều cho ta gặp một Hải Bằng độc lập. Âm điệu trầm mặc tạo cho thơ anh mang phong cách sâu kín, giàu liên tưởng, ngẫm ngợi. Có là Hải Bằng, sống chính cuộc đời của mình, mới viết nổi những câu thơ lạ, nhân ái đến tột cùng:
Ao nhà không có nơi chim đậu
Xin thả hồn ra một nhánh nè
                        (Chích choè - 1987)
Ngay cả lúc đau buồn, mà tâm hồn trong trẻo nhường này:
Ở xa xôi em có hề hiểu thấu
Tiếng khóc đầy kiêu hãnh vẫn theo em
                        (Không có em - 1987)
Tự chọn và thoả thuận chọn 50 bài thơ cho tập, mỗi bài là sự trở về chính mình. Dù đọc bài mới viết hay bài đã thách thức qua năm tháng, ta nhận ra Hải Bằng không cũ. Tất nhiên ta có quyền đòi bất cứ nhà thơ nào phải tự phá mình để vượt qua cái đã có. Hải Bằng thong thả, trầm tĩnh nhờ sức khoáng đạt (như đã nói). Và nhờ sức khoáng đạt mà thơ anh thong thả trầm tĩnh. Tuy nhiên anh chưa bao giờ bằng lòng ở mỗi bài thơ sau khi đã viết. Đó là điều trân trọng. Anh như Cây si (tên một bài thơ) trong chậu đặt trước hiên nhà chật chội: Lá vàng rụng xuống / Cây si oằn lưng, khát vọng / Gốc đau, trăn trở, nhú vòi. Và:
Sáng nay
Cây si đứng ra khỏi chậu
Chậu vỡ đôi...

Cuộc sống quanh ta nhiều khi là một trở lực lớn, với Hải Bằng như định mệnh! Có điều anh chưa hề đuối sức, quẫn trí. Anh bền bỉ kiên gan, sống để viết, chứ không cần viết để sống yên thân.
Những đêm rất khuya, ngồi với nhau tôi và anh không nói gì. Bất chợt Hải Bằng buông ra:
-Làm thơ khó thiệt...
Đó là tiếng của người từng yêu, từng căm, bao giờ cũng khiêm tốn, tự biết để sống với khát vọng trọn đời cho thơ.

Huế, ngày 17/5/1988
H.V.T
(
202/12-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.