Hải Bằng - thi sĩ lính

09:23 28/04/2010
MINH KHÔI…Hải Bằng là nhà thơ cách mạng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ngày mới vào Việt Minh anh được phiên vào Trung đoàn 101 nổi tiếng vùng Trị Thiên, hành quân qua khắp các chiến khu Dương Hòa, Hòa Mỹ, Ba Lòng, Cam Lộ, Do Linh... Rồi anh sang chiến đấu tại mặt trận Lào, về Thanh Hóa… Trong lai cảo thơ của anh để lại còn có những trường ca chưa in như “Đoàn quân 325”, “Bài thơ rừng hoa Chăm pa”, “Lòng em theo tiếng khèn”…

Nhà thơ Hải Bằng - Ảnh: tienphong.vn

Nhà thơ Hải Bằng về cõi vĩnh hằng đã hai năm rồi mà bên tai tôi vẫn còn văng vẳng tiếng anh đang còn hưng phấn, đọc thơ, kể chuyện tiếu lâm ở đâu đó. Nhiều nhà thơ nhà văn Huế bảo rằng, Hải Bằng mất, làng văn Huế trống đi một khoảng lòng khó bù đắp. Vì ở đâu có Hải Bằng là ở đó có đọc thơ, tặng thơ, có cười vui, hờn giận, có mắng mỏ để rồi ôm nhau khóc. Có người nhận xét Hải Bằng đậm chất “mệ” (theo cách gọi những người trong Hoàng tộc cũ, vì nhà thơ Hải Bằng là chắt nội của vua Hiệp Hòa). Riêng tôi cứ nghĩ anh mãi mãi là tâm hồn trẻ nhỏ, bộc trực và nhạy cảm. Cười đấy khóc đấy, nhưng công việc thì đam mê, miệt mài, làm đến khô người vẫn không chịu buông bút. Đúng hơn phải gọi Hải Bằng là một thi sĩ lính. Chất lính trong anh đậm đặc, phát lộ từng ngày cả trong thơ và trong cuộc sống.

Lúc sinh thời ai nói cái gì sai lập tức bị Hải Bằng mắng, bất kể đó là ai. Một lần đi dự lễ cải táng hài cốt một nữ sĩ nổi tiếng từ Hà Nội về Huế, thấy ông phó chủ tịch mặc áo cộc tay sắp bước lên dâng hương, Hải Bằng đứng sau kéo ông lại, nghiêm mặt nhắc: “Người Huế đi dự tang lễ không ai mặc áo cộc tay cả, ông về thay áo đi rồi lên thắp nhang”. Một lần khác trong dịp chúc Tết văn nghệ sĩ, do ghét chất giao đãi của một vị quan tham khi ông này đến bưng ly rượu đến chúc Tết mình, Hải Bằng đọc ngay hai câu thơ: “Em ơi chớ rót rượu nồng/ Cái say cứ để tự lòng say lên!”. Chất lính trong Hải Bằng đậm đặc đến độ, anh coi mọi người đều thân thiết như trong đơn vị thời kháng chiến, nên ông thấy cái gì thích thì “tao hí” một cách hồn nhiên. Cuộc đời anh kiếm ăn từng bữa nuôi con vô cùng vất vả, nhưng thơ, tạo hình rễ cây thì anh giàu có vô cùng, ban tặng bạn bè thoải mái hàng ngày!


Chất thi sĩ lính Hải Bằng bộc lộ từ năm 1945, khi anh 15 tuổi, bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý của gia đình quan lại hoàng tộc để xin gia nhập Vệ Quốc Đoàn. Chỉ có tấm lòng cách mạng, lãng mạn cách mạng quyết liệt, mới từ giã cuộc sống riêng để cất bước lên đường dấn thân như vậy! Chính cái chất thi - sĩ - lính ấy đã làm cho anh một đời lao đao, khốn khổ. Nhưng cũng chính cái chất lính ấy tạc nên chân dung thơ Hải Bằng bộc trực, nhạy cảm, nhân từ và quyết liệt. Hải Bằng là nhà thơ cách mạng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ngày mới vào Việt Minh anh được phiên vào Trung đoàn 101 nổi tiếng vùng Trị Thiên, hành quân qua khắp các chiến khu Dương Hòa, Hòa Mỹ, Ba Lòng, Cam Lộ, Do Linh... Rồi anh sang chiến đấu tại mặt trận Lào, về Thanh Hóa… Trong lai cảo thơ của anh để lại còn có những trường ca chưa in như “Đoàn quân 325”, “Bài thơ rừng hoa Chăm pa”, “Lòng em theo tiếng khèn”.

Lúc sinh thời, mỗi lần nhắc đến thời trai trẻ anh lại giở những trang bản thảo thơ đã nhòe mưa rừng và năm tháng, rưng rưng đọc cho tôi nghe. Rồi anh khóc giàn dụa nước mắt như một đứa trẻ. Thời chống Mỹ, anh gắn bó với vùng đất lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh. Bài thơ “Cồn Cỏ” là một trong những bài thơ hoành tráng nhất, xúc động nhất viết về đảo Cồn Cỏ anh hùng trong những ngày bão lửa. Năm 1965, bài thơ được giải thưởng báo Văn nghệ do nhà thơ Xuân Diệu làm chánh chủ khảo. Bài thơ được các chiến sĩ đảo trang trọng khắc treo lên phòng truyền thống cho đến tận hôm nay. Ở Huế sau ngày giải phóng tôi đã nghe anh đọc bài thơ “Cồn Cỏ” ở các buổi sinh hoạt thơ đến hàng trăm lần, mà lần nào cũng sục sôi, quyết liệt. Cả khi anh bị bệnh ung thư vòm họng vừa được chạy chữa, có đêm thơ khán giả yêu cầu, anh gầy như que củi, vẫn đứng lên đọc cả trăm câu thơ hùng hồn, sang sảng. Bài thơ đọc xong được cả hội trường vỗ tay rào rào tán thưởng nhiều lần, còn anh thì phải cấp tốc lên phòng cấp cứu bệnh viện. Tôi bảo anh: “Lần sau anh cứ đọc nho nhỏ, người ta đủ nghe là được, đọc to thế hại lắm”. Anh trừng mắt mắng tôi: “Cậu nhà thơ mà chẳng hiểu gì cả! Thơ nó buộc phải đọc như thế, không thể khác được. Thà chết vẫn phải đọc to như tiếng súng!” Đó là chất lính ròng Hải Bằng. Chất thi sĩ ròng Hải Bằng... Đảo nhìn lên trời rộng / Đá quật máy bay nhào / Đảo nhìn xuống biển sâu /Đá dìm tàu giặc Mỹ...

                        ... Đảo Cỏ xanh đảo Cỏ
                        Cồn gang dựng cồn gang..
                        ... Súng ngửng lên đầu gió
                        Đảo anh hùng - Việt Nam


Năm 1950, vừa tròn 20 tuổi, trong đợt theo bộ đội đi chiến dịch ở vùng Cam Lộ, Do Linh (Quảng Trị), Hải Bằng (lúc đó gọi là Văn Tôn) thấy trong đám xác chết của quân địch, có một nữ y tá người Pháp. Trong túi cô cứu thương còn có bức thư của bà mẹ cô từ Pháp gửi qua, nhắn con gái hãy trở về Pháp với mẹ. Xúc động trước thân phận người con gái bị bọn thực dân đẩy vào cuộc chiến tranh phi nghĩa, nhà thơ đã làm bài thơ dài “Gửi em nữ cứu thương người Pháp”. Bài thơ được chép tay, được học thuộc, lan truyền nhanh chóng trong các đơn vị bộ đội trên chiến trường Bình - Trị - Thiên và gây nên sự xúc động sâu sắc... Chiều nay tiếng súng anh ngừng nổ / Thấy xác em nằm trên đống cỏ khô / Đắp cho em màn trấn thủ / Ngậm ngùi anh đọc những dòng thư / Thư buồn mẹ nhắn em về nước… Bài thơ có tầm tư tưởng quốc tế lớn, có cách nhìn về chiến tranh rất nhân đạo và hiện đại. Thôi em nằm đó anh đi trận / Giết kẻ thù chung cướp nước anh / Đem lại ngày mai hai dân tộc / Một bình minh tươi sáng hơn.

Chất thi sĩ lính Hải Bằng trong bài thơ vào thời đó thật trung thực và mới mẻ. Đáng tiếc do cách nhìn thiển cận, cực đoan, ngay hồi đó bài thơ đã bị đưa ra mổ xẻ, phê phán, kiểm thảo tác giả với lý do “thương xót kẻ thù”. Vì thếbài thơ đáng quý ấy đã không được in vào các tập thơ kháng chiến, thế hệ trẻ sau này không được đọc. Ngay những đoạn tôi trích dẫn trên cũng từ trí nhớ của nhà thơ Nhất Lâm, một người lính Quảng Trị thời chống Pháp, đọc cho nghe.

Chất thi sĩ lính Hải Bằng còn thể hiện trong một câu chuyện thơ cảm động xảy ra cách đây gần 50 năm. Năm 1952, chiến sĩ văn nghệ Văn Tôn đang ở chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị), thuộc Phòng Chính Trị phân khu Bình Trị Thiên. Hai người bạn thân cùng làm văn nghệ là Văn Tôn và Trần Quốc Tiến (sau này là họa sĩ) được phân công về Trung đoàn 95 theo mùa chiến dịch, tức phải xa chiến khu. Để kỷ niệm thời gian được rừng che chở, hai người hẹn nhau làm mỗi người một bài thơ, bỏ vào cái hũ sành nút lại rồi đem chôn xuống rừng Ba Lòng gọi là làm tin. Bây giờ đã 50 năm rồi, không biết thơ trong cái hũ có còn không.

Còn câu chuyện cảm động mà Hải Bằng kể gây ấn tượng mạnh đối với tôi. Tháng 7 -1989, ngày lập lại Hội văn nghệ Quảng Trị (sau khi tách tỉnh Bình Trị Thiên), trong đêm sương Thành Cổ Quảng Trị Bải Bằng, Trần Quốc Tiến hai người bạn cùng chôn thơ ở rừng Ba Lòng ôm lấy nhau, nức nở đọc những câu thơ nửa thế kỷ chôn dưới đất. Đêm đó tôi đã không cầm được nước mắt trước cái tình thơ cao cả, lãng mạn đẹp của đời lính. Thơ để in ra, để đọc lên, để chép tặng, chuyện thơ đem chôn để tặng rừng thì Hải Bằng là thi sĩ Việt Nam đầu tiên thực hiện! Bài thơ được anh chép lại kiểu tự xuất bản bằng vi tính để tặng bạn bè, chứ đến bây giờ vẫn chưa in thành sách. Bài thơ dài 100 câu, gọi tên là “Trăm năm rừng cũ”... Chiều hôm nay ta tròn hai mươi tuổi / Xa quê hương lên lãng mạn với rừng / Súng chuyền tay gác tháng năm chờ đợi / Trên đỉnh đèo ta bước giữa không trung. Mới 20 tuổi mà đã nghĩ đến cháu chắt trăm năm sau: Cháu chắt ơi! Cố là Tôn- thi sĩ / Của rừng xanh từ độ ấy trăm năm / Hãy nối đuôi để lo bồi thế hệ / Cho kiếp sau thơ chẳng phai tàn. Chiến khu mang tuổi đời ta đó / Tiếng từ quy chia gió chạnh đêm dài / Tiếng mang nai, tiếng cọp gầm man rợ / Tiếng lá cành- Sương rụng buốt hai vai.. Và khổ kết thật cảm động:

                        Áo bạc năng rồi nhờ ai miếng và
                        Để cho ta yên giấc dưới mồ sâu
                        Thơ ta đây, nếu còn xanh sắc lá
                        Xin núi rừng cho trổ bóng ngày sau

Mỗi lần lên thăm mộ anh trên núi Tam Thai - Huế, dưới tán rừng thông vút gió, tôi như nghe tiếng anh đang đọc những câu thơ gửi con cháu, gửi rừng năm mươi năm trước. Haỉ Bằng ơi, chất trẻ thơ, chất thi sĩ lính trong anh còn đọng mãi trong tâm khảm bạn bè và người yêu thơ như bóng rừng đã trổ.

Huế, 6- 2000
N. M
(137-07-00)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.

  • HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)

  • NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...

  • TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)

  • PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).

  • NGUYỄN THANH MỪNG                Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.

  • NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.

  • NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.

  • VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…

  • VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)

  • TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.

  • BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.