Hà Nội - từ trang viết đầu tay năm ấy…

09:29 23/02/2010
NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.

Đó là bài ký “Những người đi tiên phong” đăng trên báo “Văn học” năm 1959, viết về những người bạn phải bỏ dở khoá học ở Trường Giao thông để sung vào đội quân mở tuyền đường lịch sử “559”.
Kỷ niệm tròn nửa thế kỷ vào đời, lớp Khoá 8 Trường Giao thông chúng tôi vừa tổ chức gặp mặt tại Hà Nội. 50 năm đã qua, một số bạn đã mất - trong đó người đã hy sinh trên những tuyến đường ra mặt trận, hơn hai chục anh chị em về dự cuộc gặp đều ở lớp tuổi “cổ lai hy”. Hà Nội đã đổi khác quá nhiều, không thể nhận ra dấu tích nào của khu Cầu Giấy quanh ga tàu điện “ngày xưa” - nơi có Trường Giao thông với những dãy nhà cấp 4 xập xệ. Cho dù vậy, đi trên con đường kín đặc xe cộ ngang qua nơi mình đã ăn học mấy năm, những kỷ niệm, những hình ảnh thời trai trẻ lại như hiển hiện trước mắt…

Còn nhớ, năm 1969, lúc vừa tròn 30 tuổi, sau khi in tập ký sự “Vì sự sống con đường” tôi được ra Hà Nội dự lớp bồi dưỡng những người viết văn trẻ và được “đặc cách” mời tham dự Hội nghị “Sáng tác văn học về đề tài công nhân” lần đầu tiên do Tổng Công đoàn và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Quảng Ninh. Gọi là “đặc cách”, vì bên cạnh những lão tướng trên mặt trận này như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Võ Huy Tâm, Huy Phương..., tôi là anh lính mới tò te. Tại Hội nghị này, trong bản tham luận “Nguồn vô tận của văn thơ”, tôi đã nhắc đến những con người trên những công trình xây dựng cầu đường và những tuyến đường ra mặt trận đã gợi cảm hứng sáng tác cho tôi, nhưng chính những con đường Hà Nội là nơi đã đưa tôi đến ngưỡng cửa văn thơ. Đã hơn nửa thế kỷ qua, nhưng bây giờ nhiều đêm tỉnh giấc hoặc khi nghe những bài hát về Hà Nội, tôi lại tưởng như thấy hiện ra trước mắt mình những con đường leng keng chuông tàu điện từ Hồ Hoàn Kiếm tỏa đi các phố phường; những “con đường tơ lụa” Hàng Ngang, Hàng Đào, những phố Hàng Gai, Hàng Bạc, Hàng Bồ... san sát cửa hiệu buôn bán sầm uất, với các cô chủ, bà chủ mặt hoa da phấn xinh đẹp... Hồi đó, hòa bình vừa lập lại, tôi ra Hà Nội kiếm sống, ngày ngày đeo chiếc xắc đựng đầy sách đi bán dạo khắp phố phường Hà Nội. Những cuốn sách viết về chiến thắng Điện Biên Phủ như “Người người lớp lớp” của Trần Dần, sách của Nhà “Xây dựng”... ngày đó được nhiều bạn đọc tìm mua. Ngày bán sách, tối đọc sách và sức hấp dẫn từ những trang sách đã khiến tôi cầm bút.

Về sau, khi đã trở thành người cán bộ kỹ thuật trên các công trường xa xôi và nhất là những năm chiến đấu trên tuyến lửa Quảng Bình, mỗi lần có dịp về Hà Nội, tôi lại được khích lệ, được tiếp sức đi tiếp trên đường văn, được sưởi ấm tâm hồn dưới những mái nhà thân thuộc. Nhiều anh chị em của tôi và mẹ tôi đã lần lượt trở thành cư dân Thủ đô. Hà Nội còn có biết bao ngôi nhà gắn với những kỷ niệm vào đời của tôi. Căn nhà trong ngõ phố Lý Thái Tổ, nơi lần đầu tôi biết vị chát đắng của miếng cơm kẻ làm thuê; ngôi trường “Điện Biên” ở phố Quán Sứ với những giờ học văn thú vị với thầy Trần Lê Văn; rồi Nhà hát Lớn và Nhà hát Nhân dân san sát những hàng ghế gỗ giữa “quảng trường” không mái che với những đêm diễn “Lu-ba”, “Con nai đen”... và các rạp chiếu bóng Kinh Đô, Long Biên, Đại Đồng, Hòa Bình... thường đông nghịt người, trong đó, loại khán giả “khát phim” vì sống ở những nơi xa xôi như tôi thì có ngày xem tới 2-3 suất. Cũng không thể quên Nhà sách Tràng Tiền như là một điểm sáng của Thủ đô, người có học về Hà Nội hẳn đều ghé lại, dù không mua cũng để nhìn ngắm những tác phẩm mới - những giá trị văn hóa vừa được sáng tạo nên, trưng bày trang trọng trong các tủ kính. Lại còn những ngôi nhà của một số nhà văn tên tuổi như Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Khải, Nguyễn Thành Long, Kim Lân, Nguyễn Xuân Sanh... mà tôi có dịp đến không chỉ một đôi lần, do các ông ưu ái một cây bút trẻ đang ở nơi đầu sóng ngọn gió, giúp đọc, hướng dẫn, sữa chữa những sáng tác đầu tay. Cũng có khi vì cơ duyên may mắn: nhà của các ông rất gần chỗ cư ngụ của các anh chị tôi, thậm chí, hồi tháng 5/1967, khi tôi được ra Hà Nội hoàn thành tập ký sự “Vì sự sống con đường”, mỗi lúc máy bay Mỹ gầm rú lao đến oanh tạc, tôi mở cửa căn phòng nhà chị tôi ở phố Trần Quốc Toản để ra hầm trú ẩn là lại gặp thân hình cao gầy của nhà phê bình Hoài Thanh. Còn khi viết tiểu thuyết “Đường qua làng Hạ”, bác Nguyễn Công Hoan chỉ cho cả cách đặt dấu “phẩy”; tôi viết: “Xa nữa là Trường Sơn”, bác chữa lại: “Xa nữa, Trường Sơn”; thay chữ là bằng dấu phẩy, câu văn ngắn gọn mà có sức gợi cảm hơn nhiều. Nhà văn Nguyễn Khải, khi đọc bản thảo tiểu thuyết “Đường giáp mặt trận”, nghe tôi nói dự định sẽ “cho” nhân vật Loan hy sinh trong trận chiến đấu mở đầu tập tiếp theo (tiểu thuyết “Chỗ đứng người kỹ sư”) đã bảo tôi: “Dựng được một nhân vật như cô Loan không dễ đâu, đừng vội để cô ta chết”; quả nhiên, cô Loan đã thành một nhân vật sinh động đi tới trang cuối tiểu thuyết “Chỗ đứng người kỹ sư”...

(Trang đầu sách của nhà văn Nguyễn Tuân tặng NV Nguyễn Khắc Phê năm con cọp)
Tất cả đã góp phần nuôi dưỡng, kích thích và gợi cảm hứng sáng tác cho tôi. Tuy chưa có tác phẩm nào viết riêng về Hà Nội, nhưng hình ảnh Hà Nội đã hiện ra sinh động trên nhiều trang sách đã xuất bản của tôi. Đó là tình cảm thiêng liêng của những chiến sĩ thanh niên xung phong, công nhân trên đường đèo Mụ Dạ giữa đêm khuya, bên những đoàn xe tiến ra mặt trận, lòng hướng về Hà Nội, nơi Bác Hồ vừa bắt tay giao nhiệm vụ lịch sử giữ con đường huyết mạch của Tổ quốc cho đồng chí Bí thư Đảng ủy công trường 12A tại Đại hội “Bảo đảm giao thông” đầu tiên hồi năm 1966. (Ký sự “Vì sự sống con đường”). Đó là hình ảnh những con người Hà Nội như kỹ sư Sơn, công trình sư Tâm, cô An giám sát viên, cô Loan y tá... giữa cuộc chiến đấu quyết liệt trước bom đạn kẻ thù và cả trước những kẻ cơ hội, giả dối, trước những phút yếu hèn của chính bản thân mình, đã trở nên “thép đã tôi”, đã thành những nhân vật điển hình trong tiểu thuyết bộ đôi “Đường giáp mặt trận” và “Chỗ đứng người kỹ sư”. Trong tiểu thuyết “Những cánh cửa đã mở” (1987) hay tiểu thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” (sắp xuất bản), những cuộc “đụng đầu” giữa các nhân vật có nhiều ý nghĩa, có sức nặng tư tưởng, phần lớn đều diễn ra tại Hà Nội, chính vì từ vị thế của Thủ đô, các nhân vật cũng như tác giả - cho dù ở “tỉnh lẻ” hoặc từ miền đất heo hút nào về - đều được “chạm” đến những vấn đề lớn của thời cuộc, những niềm vui và cả những nỗi buồn không phải của riêng ai... 

Hà Nội trong tôi và có lẽ trong chúng ta không chỉ là những thứ có thể kể ra được. Nơi hồn thiêng sông núi cả ngàn năm tụ về nối liền với mỗi trái tim Việt bằng những “con đường” vô hình mà nhạy cảm vô cùng. Chả thế mà những mưu toan, những công trình làm “ô nhiễm” vùng đất thiêng quanh Hồ Hoàn Kiếm như ngôi nhà “hàm cá mập” hồi nào lập tức bị dư luận cả nước lên án. Và ngược lại, những giá trị văn hoá của Hà Nội có sức lan toả, vang vọng đến mọi miền quê trên đất Việt. Tôi bỗng nhớ đến cô An, cô kỹ thuật viên trẻ người Hà Nội, khi vui cũng như lúc buồn, thường nhẩm hát bài “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi giữa rừng Trường Sơn những năm khói lửa: “Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây. Đây lắng hồn núi sông ngàn năm. Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội… Hà Nội mến yêu…”

Một chi tiết nhỏ, chỉ là một khoảnh khắc trong ngàn năm; nhưng lịch sử ngàn năm Thăng Long-Hà Nội  cũng hợp thành từ những khoảnh khắc. Có khoảnh khắc hùng tráng như những lần giặc phương Bắc cuốn cờ tháo chạy, như giây phút Quảng trường Ba Đình truyền đi giọng nói ấm áp “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”, như đêm “Điện Biên Phủ Trên Không” B.52 Mỹ cháy sáng bầu trời Hà Nội… Và cũng có khoảnh khắc thầm lặng trong mỗi căn nhà của những bà mẹ vừa tiễn con ra trận, của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái…trước tấm “toan” vừa căng lên khung, của Nguyễn Tuân, Tô Hoài… bên trang bản thảo đầy kín những con chữ thấm đậm hương sắc Hà Nội…

Trở lại Hà Nội sau nửa thế kỷ vào đời cùng với trang viết đầu tay, dù “Hà Nội mến yêu” luôn ở trong trái tim mình, dù mái tóc đã pha sương, mắt mờ, chân chậm, tôi vẫn thích “cưỡi” hon-đa chen chúc cùng thiên hạ. Để tìm về những kỷ niệm xưa. Để “thấm” cái bộn bề của Hà Nội hôm nay. Cuộc sống luôn tiến về phía trước, những con đường Hà Nội hướng ra bốn phương luôn nêm chặt xe cộ, khói bụi mù trời. “Dấu xưa” chẳng còn bao nhiêu, nhưng những kỷ niệm cũ, những con đường cũ từng dẫn tôi đến ngưỡng cửa văn thơ vẫn sống mãi trong hồn tôi và gieo vào lòng tôi niềm hy vọng mới. Hà Nội sẽ có thêm nhiều khoảnh khắc đẹp, ở đó, lương tâm và trí tuệ thăng hoa, vượt lên những khối bê tông cao ngất đang mọc lên ngày càng nhiều ở Thủ đô…

N.K.P
(252/02-2010)



 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.