Hà Minh Đức - tôi khao khát tìm hiểu cuộc sống

15:35 08/05/2009
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.


Hà Minh Đức - tôi khao khát tìm hiểu cuộc sống

- Lý Hoài Thu (L.H.T): Thưa giáo sư, với những câu thơ:
Mùa đông ơi xa cách quá chừng - Những kỷ niệm rung chuông thời thơ ấu, rồi tuổi trẻ: Anh nắm tay em dưới tán lá mưa rơi - Nước mắt chảy tràn qua đôi miệng trẻ, và khi tuổi xuân đã qua: Người già ngồi sưởi cùng với bóng, người đọc đã cảm hiểu phần nào những chiều đối cực trong xúc cảm của một hồn thơ. Nhưng thơ và ký là hai thể loại có nhiều khác biệt: một đằng là sự thăng hoa của ký ức, hoài niệm, một đằng là sự ghi chép, quan sát tỉ mỉ. Đã có đến 3 tập bút ký, xin GS vui lòng cho biết những quan niệm riêng của mình về thể loại dễ viết mà khó hay này?
- GS. Hà Minh Đức (GS.H.M.Đ): Tôi quan niệm viết ký là viết về những điều gần gũi, thân tình với cuộc sống của mình; và tôi cũng không đi tìm những đề tài quá xa xôi để viết. Trong cuộc sống, cái đời thường gần mình nhất có một sức hấp dẫn riêng. Không đột xuất nhưng có thể nói được bản chất. Trong tác phẩm ký đầu tiên Vị giáo sư và ẩn sĩ đường tôi viết lời tâm sự "cho dù là những mảnh nhỏ, mảnh vỡ của cuộc sống nhưng biết chắp nối lại theo dòng kỷ niệm và mạch tình cảm gắn bó vẫn có thể tìm thấy trong những góc lãng quên hình bóng chân thực của cuộc đời". Đến nay, và hôm nay tôi vẫn nghĩ thế. Điều lo lắng của tôi là những hạn chế của đời sống cá nhân có đủ cung cấp cho những trang viết để khỏi tẻ nhạt và đơn điệu. Không ai chọn lựa được trước những gì sẽ xẩy ra trong cuộc sống chung và riêng. Vì vậy ký không khỏi bị ràng buộc nhiều từ cuộc sống.

- L.H.T: Tản mạn đầu ô có một nội dung phong phú và bao quát được nhiều vấn đề: từ sinh hoạt của một góc phố đến những phương trời Âu-Mỹ xa xôi. Từ chân dung những nhà văn, nhà khoa học lớn đến những người lao động bình thường, từ chuyện ăn uống văn hoá tri thức... GS có chủ ý trong dàn dựng bố cục của tập sách hay không?
- GS.H.M.Đ: Không, đó chỉ là sự tập hợp có tính ngẫu nhiên theo chiều thời gian và những ấn tượng được cảm nhận. Khác với tiểu thuyết, kịch, tác phẩm thường là một cấu trúc có chủ định và nhất quán. Ký phụ thuộc vào một chuyến đi, một trận đánh, một vùng đất được khảo sát và cũng phụ thuộc vào những tản mạn của người viết trước đối tượng nhiều màu vẻ. Tuy có phần ngẫu nhiên nhưng cũng đã có sự lựa chọn. Như tôi đã nói, tôi chỉ viết về những gì gần gũi với mình. Với tôi, trong chất liệu đã có tình cảm, thái độ. Các nhà văn trong sách của tôi như Xuân Diệu, Huy Cận, Hoàng Trung Thông, Tô Hoài, các nhà khoa học như GS. Bùi Văn Nguyên, GS. N.I.Niculin đều là những người tôi gắn bó, kính trọng. Viết về họ tôi có ý thức phải làm sao tạo dựng được bức chân dung tổng hợp cả phần "đời" lẫn phần "đạo".

- L.H.T: Nhưng thưa GS, "đời" và "đạo" thường khó trọn vẹn đôi bề?...
- GS.H.M.Đ:
Chính vì vậy mà phải có sự thấu hiểu và cảm thông. Nhìn nhận một con người, tôi kính trọng nhất là tài năng và nhân cách. Tôi thiên về nói cái hay, cái đẹp và phần nhà văn đóng góp cho đời. Tôi chấp nhận nhiều màu vẻ của cá tính và sở thích riêng.

- L.H.T: Và những người lao động bình thường, thưa GS?
- GS.H.M.Đ:
Những người lao động lương thiện được nói đến trong tác phẩm của tôi đều có số phận riêng. Nhiều lúc ở những bước rẽ của cuộc đời, họ chỉ thiếu một chút may mắn, nếu vượt qua được ranh giới mong manh ấy, cuộc đời họ có thể đổi khác. Những người thợ, người lái xe mà tôi nói đến có thể trở thành nhà giáo, cán bộ kỹ thuật, cán bộ phong trào... nếu họ gặp may. Tôi trân trọng những cuộc đời bình thường đó và tôi cũng là một người bình thường. Bình thường là cái thường nhật, là hoàn cảnh gần gũi trực tiếp tạo nên tính cách. Tôi quý trọng những tấm gương toả sáng đột xuất lạ kỳ, nhưng tôi cũng quý trọng những tấm gương bền bỉ vượt lên qua nhiều năm tháng trong đời thường. Là một nhà giáo, cuộc sống của tôi trên dòng trôi bình dị nên cũng không tránh khỏi đơn điệu trên trang viết.

- L.H.T: Ngoài mối đồng cảm trước thân phận con người, Tản mạn đầu ô cho thấy vốn tri thức văn hoá, những trải nghiệm trong cuộc đời và cả sự "sành điệu" trong khoa ẩm thực đã là một vốn lớn giúp GS có thể viết nhanh, viết dễ dàng mà sâu sắc, cuốn hút về nhiều lĩnh vực khác nhau?
- GS.H.M.Đ:
Tôi viết ký lúc "về già". Vì vậy, các trang viết về cuộc đời vừa già dặn vừa như ngơ ngác. Tuổi tôi bây giờ, "lực hút vào rồi lại đẩy ra". Nhiều chuyện mới bắt gặp thấy thích thú, hăm hở muốn viết nhưng sau lại thấy ngại ngùng. Nhiều sự việc, con người tôi bắt gặp rất hấp dẫn, nhiều màu vẻ, nhưng ống kính nghệ thuật của mình quá hẹp không ôm nổi sự phong phú của cuộc đời nên đành chừng mực và cũng dần lãng quên. Đó là thực trạng của tuổi già, cái bất lực của người có tuổi trước cuộc sống. Cái chính là tôi yêu cuộc sống, yêu đất nước. Ngoài ra, tôi cũng có một vài "ưu điểm nhỏ" khác: tôi ham hiểu biết về cuộc sống, con người và những năm gần đây tôi lại được đi nhiều, kể cả trong và ngoài nước. Chính vì vậy mà tác phẩm của tôi có nhiều địa danh như Sa Pa, Tam Đảo, Sầm Sơn, Cúc Phương, đất nước chùa Tháp (Căm pu chia), Tôrôntô (Canađa), St.Pêtécbua... Vừa qua tôi đi dọc miền trung từ Nghệ An, Huế, Quy Nhơn, rồi lên Tây Nguyên qua Plây-cu, Buôn mê thuột... Tuổi cao, phải cố gắng nhiều vì không dễ có nhiều dịp khác. Đi qua nhiều miền đất nước, xứ sở khác nhau, tôi thấy đất nước mình tươi đẹp, được thiên nhiên ưu đãi. Càng đi càng thấy cái gì cũng có thể khai thác, gửi gắm. Cũng xin nói thêm là tôi viết ký và không dám có ý "khoe" mình đi những đâu, gặp những ai, mà cái chính là để miêu tả, ca ngợi đối tượng và để bộc lộ mình.

- L.H.T: Thưa GS, nhiều người nhận xét là ký của GS đọc thú vị và hấp dẫn, đặc biệt là các chi tiết, những đoạn đối thoại, chất hài hước... Vậy đó có phải là những yếu tố chính hay không?
- GS.H.M.Đ:
Tôi nghĩ điều quan trọng là phải chú ý phát hiện phần bộc lộ và những tiềm ẩn của cuộc sống thật. Tất cả là ở đấy. Tôi chưa viết tuỳ bút và cũng ít dùng bình luận và liên tưởng chủ quan làm yếu tố chính để phát triển nội dung tác phẩm ký. Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên trước đây giàu nội lực sức suy tưởng và cảm nghĩ rất mạnh trong các tuỳ bút, bút ký chính luận và tiểu phẩm của mình. Tôi viết ký theo dạng người gửi tiền tiết kiệm, tích tụ vốn sống, tri thức đến một lúc nào đủ thì viết. Mặt khác qua những chuyến đi tôi thích viết du ký để ghi lại một kỷ niệm. Tôi rất chú trọng đến chi tiết và cố tìm ra, lọc ra những chi tiết tiêu biểu. Có chi tiết hay, bài viết gây ấn tượng thật, rất thật, hấp dẫn. Gặp tình huống có chất hài hước,tôi ghi lại chân thực chất hài hước. Tôi không cố ý gây cười một cách chủ quan.Tất cả là từ cuộc sống thật nên không thể thiếu, không thể bỏ qua.

- L.H.T: Vâng! Dù sao sự nhạy cảm trước cái hài, chất "uy - mua" vốn được coi là nét duyên "đặc thù" của con người GS Hà Minh Đức ngoài đời đã đi vào bút ký một cách tự nhiện và tạo được chất giọng riêng. Nhiều đoạn viết cứ như chơi, đọc thấy vui, mặn mà, dí dỏm. Điều này không thể có trong thơ hay trong văn nghiên cứu, phê bình... Nhưng, so với 2 tập trước, tập ký thứ 3 này hình như buồn hơn, nhất là các bài Tản mạn đầu ô, Người muôn năm ...
- GS.H.M.Đ: Không hẳn vậy. Tôi quý trọng niềm vui của mọi người nhưng là người dễ nhạy cảm với cái buồn trong đời. Trong cái được cái mất của mọi người tôi dễ xúc động với những mất mát, thua thiệt của bạn bè và mọi người. Cũng vì thế mà trang viết nhiều lúc buồn như vô cớ, nhất là trong thơ. Con người tôi nhiều lúc cứ tưởng vui mà buồn, tưởng nhàn hạ mà lại nhiều vất vả... Nhưng, xin nhắc lại tôi yêu và khao khát tìm hiểu cuộc sống.

- L.H.T: Thưa GS, hiện nay, hồi ký văn học đang "lên ngôi". Cuốn hồi ký hứa hẹn nhiều hấp dẫn như của GS bao giờ có thể ra mắt bạn đọc?
- GS.H.M.Đ:
Gần đây, tôi đã đọc nhiều hồi ký của các nhà hoạt động xã hội, nhà văn, nghệ sĩ... Tôi có suy nghĩ là ai nên viết hồi ký, có thể viết hồi ký? Ở một số nước như Anh, Mỹ, Pháp có nhiều loại hồi ký của chính khách, nhà văn, nhà báo, diễn viên điện ảnh rồi những chuyện đời bi thảm, chuyện tình éo le. Đời tư nhiều khi phơi bày trong dư luận. Chúng ta tiếp nhận có chọn lọc và chừng mực hơn. Nguyên tắc là cuộc sống cá nhân phải có ý nghĩa xã hội, giúp vào việc nhận thức xã hội. Đối với bản thân, tôi cũng có nghĩ đến hồi ký nhưng băn khoăn không biết cuộc đời mình có đủ tạo nên sự phong phú và hữu ích cho các trang viết hay không? Nếu có, trước hết là cho chính mình và những người thân.
- L.H.T: Xin cảm ơn Giáo sư.

Hà Nội, ngày 11 - 2 - 2003
LÝ HOÀI THU thực hiện
(169/03-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.