Hấp dẫn không chỉ vì đậm phong vị Huế và giàu nữ tính

15:35 10/09/2019

NGUYỄN KHẮC PHÊ

(Đọc Phấn hoa, tiểu thuyết của Phạm Ngọc Túy, Nxb. Thuận Hóa, 2019)

Phạm Ngọc Túy là cây bút không xa lạ với Huế. Chị đã in 4 - 5 tác phẩm, từng được giải truyện ngắn Tạp chí Sông Hương và giải hàng năm của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế. Tuy vậy, cô giáo - nhà văn Phạm Ngọc Túy vốn làm việc trong lặng lẽ, hầu như chưa nghe chị phát ngôn hay đăng đàn ở đâu cả.

Vậy nên tôi (và tôi tin rồi sẽ có nhiều bạn đọc nữa) khá bất ngờ khi đọc Phấn hoa của Phạm Ngọc Túy. Được biết Phấn hoa được khởi thảo từ năm 2000, tức là gần chục năm trước khi tiểu thuyết Bình minh ơi trở lại của chị xuất bản (năm 2008), nhưng đến nay mới ra mắt công chúng - vẫn lặng lẽ theo kiểu Phạm Ngọc Túy. Trong thị trường sách vô cùng phong phú và cũng lắm “chiêu trò” quảng bá như hiện nay, một tác giả chưa nổi tiếng như Phạm Ngọc Túy quả là không dễ tìm được nơi xuất bản và phát hành cuốn tiểu thuyết dày trên 400 trang. Phạm Ngọc Túy “ôm” bản thảo hơn chục năm và nay nhờ cú “hích” là khoản hỗ trợ sáng tạo Văn học Nghệ thuật của Nhà nước năm 2018, thông qua Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế - dù chỉ là một số tiền khiêm tốn, tác giả mới có điều kiện in Phấn hoa với số lượng… không thể ít hơn nữa!

Tôi bất ngờ khi đọc Phấn hoa vì thú thật trước một tiểu thuyết dày chưa có dư luận, lại xuất hiện “khó khăn” và lặng lẽ như thế, bên cạnh còn cả chục cuốn sách chưa kịp đọc, tôi chỉ định “lướt qua” rồi xem sau; nhưng không ngờ… Xin nói ngay là lâu rồi, tôi mới đọc một cuốn tiểu thuyết thú vị như cuốn này. Có thể nói như vậy, vì rất nhiều tiểu thuyết xuất bản trong những năm qua - kể cả tác phẩm của những nhà văn tên tuổi, được công luận chú ý nhiều khi nhờ vào sức “nóng”, tính thời sự của đề tài (như chống tham nhũng, tiêu cực, đấu tranh ý thức hệ, sai lầm, ấu trĩ thời “cải cách ruộng đất” hay thời “bao cấp”, sự bi thảm của chiến tranh v.v), chứ không phải do sự cuốn hút của nghệ thuật tiểu thuyết. Phấn hoa thì khác; mặc dù tiểu thuyết mở đầu là cảnh Huế năm 1964 - 1965, trải qua mấy chục năm chiến tranh gia đình ly tán, nhưng nhờ tác giả vượt thoát sự hạn chế của “quán tính” có thể gọi là dòng “văn học đề tài”, không bị trói buộc vào các sự kiện lớn hay nhân vật có “vai vế” trong xã hội, nên thỏa sức thả trí tưởng tượng tạo dựng nên thế giới nghệ thuật với các nhân vật chỉ với một mục đích tối thượng là nhằm đạt tới các tiêu chí phổ quát mà một tiểu thuyết cần có. Có thể kế đó là sức hấp dẫn, nhân vật sinh động, những trang văn đẹp và có chiều sâu ý tưởng…

Phấn hoa của Phạm Ngọc Túy có sức cuốn hút bạn đọc, càng đọc càng thú vị nhờ tác giả đã rất cao tay xây dựng kết cấu tiểu thuyết như một tác gia kinh điển: Sau Phần Mở chưa đến 40 trang miêu tả khung cảnh hai chị em Kén và Sâu trong một phủ đệ ở Kim Long (Huế) năm 1964 - 1965, người đọc đang thích thú dõi theo chuyện gia đình gả vội cô Kén (Như Thủy) cho ông Hưng vì “phát hiện” Sâu còn yêu Hưng hơn, cả việc Kén say mê bắt bướm, sưu tập sâu bọ và tập viết văn nữa… thì Phạm Ngọc Túy bỗng đưa độc giả đến một “thế giới” khác - Bình, cô gái đơn độc từ miền biển Thuận An vô Sài Gòn tìm việc, dần dà lọt vào “tầm ngắm” của một gia đình giàu sang và những người đang săn tìm người mẫu diễn viên… Người đọc thoáng chút bỡ ngỡ nhưng đồng thời thích thú như như được “đổi gió” - từ cảnh “cung cấm” cố đô đến cuộc sống phóng khoáng ở Sài Gòn… Càng đọc tiếp và gần về cuối càng thú vị khi độc giả được gặp lại các “nhân vật” ban đầu, cũng tại phủ đệ ở Kim Long với nhiều bí mật được mở dần ra, những bóng ma trong đêm hóa ra người thật, khi Bình được giới thiệu đến giúp ông Hưng và bà Kén viết tiếp cuốn tiểu thuyết “Bướm Ngài”…

Sức hấp dẫn của Phấn hoa, ngoài yếu tố bối cảnh câu chuyện luôn thay đổi và cách “thắt - mở” nút khá cao tay, khéo kết hợp lối viết cổ điển với hiện đại (tiểu thuyết trong tiểu thuyết, dòng ý thức, điểm nhìn đa chiều - phần I tác giả viết ở ngôi thứ ba, nhưng phần sau lại viết với ngôi thứ nhất xưng “tôi”…) còn nhờ hệ thống các nhân vật phong phú, có cá tính rõ nét. Ngay cả Kén và Sâu, “thoạt nhìn ai cũng tưởng hai chị em song sinh với chiều cao dong dỏng, vóc người mảnh mai”, tác giả cũng khắc họa nét riêng khó lẫn: “Sâu nhoẻn miệng cười phô chiếc răng khểnh. So về sắc, cô em có phần hơn cô chị. Đôi mắt cô Kén mở to, dường như cái gì cũng làm cho cô ngạc nhiên. Đôi mắt Sâu nấp dưới hàng lông mày rậm hơi xếch, có vẻ đằm thắm dịu dàng pha lẫn chất đam mê…”. Hai nhân vật nữ có ấn tượng nhất tiểu thuyết là Bình (còn gọi là “Cá Ngần” hay “Nữ thần biển”) và Kén (tức Quỳnh Mi) tác giả tiểu thuyết “Bướm Ngài”, từ dung nhan đến tính cách, số phận còn tương phản hơn nữa. Điều thú vị là hai nhân vật, hai hoàn cảnh khác xa trời vực - Kén là công chúa, Cá Ngần xuất thân từ gia đình ngư dân, cuối tiểu thuyết lại gắn với nhau như mẹ con. Cô Kén “Tôn nữ” ở xứ sở nhiều gái đẹp đã vào ca dao (“Kim Long có gái mỹ miều/ Trẫm thương, Trẫm nhớ, Trẫm liều trẫm đi!”) - xem ra “lép vế” trước vẻ đẹp khỏe khoắn và bản lĩnh của Cá Ngần. Nhân vật Bình là hình ảnh đẹp tiểu biểu cho sự vươn lên làm chủ vận mệnh của người phụ nữ Việt Nam, dù rơi vào hoàn cảnh bi thảm sau trận bão thế kỷ cuốn sạch cả một làng biển, đến khi sống giữa chốn phồn hoa đầy cạm bẫy vẫn giữ được phẩm hạnh của mình, vẫn không quên nguồn cội; cuối tiểu thuyết, Bình đã trở về làm một cô giáo giản dị ở làng biển quê nhà…

Với nhiều chương lấy bối cảnh là cuộc sống trong phủ đệ của “ông Quận”, mặc dù đã qua thời vàng son, nhưng tác phẩm vẫn đậm phong vị Huế; từ kiến trúc nhà vườn đầy cây trái, đến đủ thứ món ăn của Huế, từ tục lệ giỗ chạp cưới hỏi đến giọng nói lời thưa… đều được tác giả miêu tả kỹ lưỡng, tinh tế. “Họ sống cùng nhau trong căn nhà rường lớn, gọi là phủ đệ rộng mênh mông với những hoành phi, câu đối, trướng liễn treo đầy… Ông Quận mê cây cảnh, như đa số nhà vườn Huế, cây và cảnh là một… Có sự hài hòa nào đó giữa màu xanh của hàng chè tàu quanh nhà với màu vôi tường ở bên trong… Cây mai hoàng điệp hay mai tứ thời được trồng trước bể nước nhỏ thả sen. Hai cây mộc, mùa xuân hoa nở trắng từ dưới lên trên…”. Và đây là Kén tâm sự với Bình về những món ăn quen thuộc: “Tháng giêng rét ngọt, nhà vườn mô cũng có rau tập tàng, là rau khoai trồng sau lụt tháng 9, rau bát bát, rau mồng tơi, rau má nấu với cua đồng cho một bát canh ngon lành… Món ăn tôi thích nhất là món môn ngọt bóp muối chấm nước mắm gừng… Tháng hai gạo kém, thức ăn như cá với tôm thì mắc, món ăn dễ dùng là cơm gạo đỏ, gạo hẻo rằn ấy với cá bống thệ rằn kho khô, thứ cá chỉ có vào mùa gặt tháng ba… Cá biển thì có cá ong. Rau cải tần ô nấu với thịt nạc hay tôm đều ngon… Tháng ba sâu nở. Tháng này có gạo chùm tía, gạo ruộng ngon nhất là gạo làng Ưu Điềm…”. Các bạn trẻ không thích phong cách “cố đô” thì đã có những chương miêu tả cuộc sống của giới người mẫu ở Sài Gòn khá là cuốn hút mà vẫn tế nhị với những cái tên lấp lánh sắc màu sàn diễn: Hồng Mơ, Trúc Đông, rồi Giọt Tuyết, Chân Tinh… Đây cũng là nét đặc sắc của văn chương Phạm Ngọc Túy. Chuyện tình trong tiểu thuyết rất éo le, hấp dẫn mà không “sex”… Cũng có thể nói, Phấn hoa là một tiểu thuyết lãng mạn nhưng không “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”, mà là tiếng nói ấm áp, gần gũi với con người bình thường nhưng biết vươn tới lẽ sống cao đẹp.

Qua nhân vật cô giáo Kén với đam mê nghiên cứu thiên nhiên và nhân vật Bình với số phận một gia đình sống chết với biển cả - hai đồng tác giả cuốn tiểu thuyết “Bướm Ngài” có quá trình sinh thành đầy bất ngờ, Phạm Ngọc Túy đã góp một giọng điệu riêng vào dòng “văn học sinh thái” đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Cũng từ đây, qua các trang văn miêu tả hay độc thoại nội tâm, tác giả đã gửi gắm những suy ngẫm đậm tính triết lý và lẽ sống mà nhân loại luôn trăn trở, bất cứ là thể chế nào. Ngay những trang đầu của tiểu thuyết, tập vở của cô sinh viên Kén đã ghi: “Hãy khích lệ những con côn trùng như con bọ rùa, ruồi trâu và những con bọ đất vào chơi nhà bạn… như một món tiền thưởng bạn có thể giảm bớt nhu cầu xịt thuốc…”. Chính Bình, đã trăn trở tự hỏi khi đánh máy và viết tiếp “Bướm Ngài”: “…Bà Mi đặt vấn đề gì trong cuốn sách của bà?” Và khi đi dạo trên con đường sâu hun hút giữa hai vòm lá giao nhau, cô nghĩ: “Đời cây, đời người. Loài bướm sống được bao ngày, đời bướm và ve đều ngắn ngủi, người nghệ sĩ mang lại cho đời cái đẹp, còn đời hoa? Hoa cũng thế. Sớm nở, tối tàn… Tại sao những mối tình đẹp đều dang dở? Tại sao?...”

Ở một đoạn khác: “Loài bướm đêm sống được bao ngày, bướm đẻ ra ngài rồi chết. Kinh Phật dạy không bao giờ có một cái chết vĩnh viễn, con ngài chính là con bướm lại sản sinh ra một lần nữa và cứ thế chu kỳ sinh sinh diệt diệt liên tục. Và chúng luôn tồn tại.

Tình yêu cũng tôn tại dưới hình thức này hay hình thức khác…”


Và rút cục, qua những gì đã trải qua, Bình cũng đã tự biết: “… Ý thức về kiếp người phù du có sớm trong tôi cùng với lời thuyết giáo của sư và những gì đã trải qua thật khủng khiếp sau cái chết của hai ngàn con người trôi ra biển đêm hôm ấy. Không những cuớp đi mạng sống của người thân mà còn tình yêu. Thầm mong trong bất cứ cuộc chia ly nào, sự sụp đổ nào vẫn còn một nẻo đường cho ta có thể hướng về tương lai. Đời bướm đêm ngắn, đời ve sầu ngắn. Người nghệ sĩ chết rồi nhưng sáng tạo nghệ thuật của người sống đến thiên thu…”.

Tôi tin rằng, tác phẩm của Phạm Ngọc Túy, sau lần “in thử” ít ỏi, sớm muộn sẽ được các nhà xuất bản có tiềm lực và khả năng phát hành ở Hà Nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh chú ý. Và như vậy, cuốn sách ghi dấu ấn “sáng tạo nghệ thuật” của Phạm Ngọc Túy sẽ được “tái” sinh để đến với bạn đọc rộng rãi hơn…

N.K.P  
(TCSH366/08-2019)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!