NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc Phấn hoa, tiểu thuyết của Phạm Ngọc Túy, Nxb. Thuận Hóa, 2019)
![]() |
Phạm Ngọc Túy là cây bút không xa lạ với Huế. Chị đã in 4 - 5 tác phẩm, từng được giải truyện ngắn Tạp chí Sông Hương và giải hàng năm của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế. Tuy vậy, cô giáo - nhà văn Phạm Ngọc Túy vốn làm việc trong lặng lẽ, hầu như chưa nghe chị phát ngôn hay đăng đàn ở đâu cả.
Vậy nên tôi (và tôi tin rồi sẽ có nhiều bạn đọc nữa) khá bất ngờ khi đọc Phấn hoa của Phạm Ngọc Túy. Được biết Phấn hoa được khởi thảo từ năm 2000, tức là gần chục năm trước khi tiểu thuyết Bình minh ơi trở lại của chị xuất bản (năm 2008), nhưng đến nay mới ra mắt công chúng - vẫn lặng lẽ theo kiểu Phạm Ngọc Túy. Trong thị trường sách vô cùng phong phú và cũng lắm “chiêu trò” quảng bá như hiện nay, một tác giả chưa nổi tiếng như Phạm Ngọc Túy quả là không dễ tìm được nơi xuất bản và phát hành cuốn tiểu thuyết dày trên 400 trang. Phạm Ngọc Túy “ôm” bản thảo hơn chục năm và nay nhờ cú “hích” là khoản hỗ trợ sáng tạo Văn học Nghệ thuật của Nhà nước năm 2018, thông qua Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế - dù chỉ là một số tiền khiêm tốn, tác giả mới có điều kiện in Phấn hoa với số lượng… không thể ít hơn nữa!
Tôi bất ngờ khi đọc Phấn hoa vì thú thật trước một tiểu thuyết dày chưa có dư luận, lại xuất hiện “khó khăn” và lặng lẽ như thế, bên cạnh còn cả chục cuốn sách chưa kịp đọc, tôi chỉ định “lướt qua” rồi xem sau; nhưng không ngờ… Xin nói ngay là lâu rồi, tôi mới đọc một cuốn tiểu thuyết thú vị như cuốn này. Có thể nói như vậy, vì rất nhiều tiểu thuyết xuất bản trong những năm qua - kể cả tác phẩm của những nhà văn tên tuổi, được công luận chú ý nhiều khi nhờ vào sức “nóng”, tính thời sự của đề tài (như chống tham nhũng, tiêu cực, đấu tranh ý thức hệ, sai lầm, ấu trĩ thời “cải cách ruộng đất” hay thời “bao cấp”, sự bi thảm của chiến tranh v.v), chứ không phải do sự cuốn hút của nghệ thuật tiểu thuyết. Phấn hoa thì khác; mặc dù tiểu thuyết mở đầu là cảnh Huế năm 1964 - 1965, trải qua mấy chục năm chiến tranh gia đình ly tán, nhưng nhờ tác giả vượt thoát sự hạn chế của “quán tính” có thể gọi là dòng “văn học đề tài”, không bị trói buộc vào các sự kiện lớn hay nhân vật có “vai vế” trong xã hội, nên thỏa sức thả trí tưởng tượng tạo dựng nên thế giới nghệ thuật với các nhân vật chỉ với một mục đích tối thượng là nhằm đạt tới các tiêu chí phổ quát mà một tiểu thuyết cần có. Có thể kế đó là sức hấp dẫn, nhân vật sinh động, những trang văn đẹp và có chiều sâu ý tưởng…
Phấn hoa của Phạm Ngọc Túy có sức cuốn hút bạn đọc, càng đọc càng thú vị nhờ tác giả đã rất cao tay xây dựng kết cấu tiểu thuyết như một tác gia kinh điển: Sau Phần Mở chưa đến 40 trang miêu tả khung cảnh hai chị em Kén và Sâu trong một phủ đệ ở Kim Long (Huế) năm 1964 - 1965, người đọc đang thích thú dõi theo chuyện gia đình gả vội cô Kén (Như Thủy) cho ông Hưng vì “phát hiện” Sâu còn yêu Hưng hơn, cả việc Kén say mê bắt bướm, sưu tập sâu bọ và tập viết văn nữa… thì Phạm Ngọc Túy bỗng đưa độc giả đến một “thế giới” khác - Bình, cô gái đơn độc từ miền biển Thuận An vô Sài Gòn tìm việc, dần dà lọt vào “tầm ngắm” của một gia đình giàu sang và những người đang săn tìm người mẫu diễn viên… Người đọc thoáng chút bỡ ngỡ nhưng đồng thời thích thú như như được “đổi gió” - từ cảnh “cung cấm” cố đô đến cuộc sống phóng khoáng ở Sài Gòn… Càng đọc tiếp và gần về cuối càng thú vị khi độc giả được gặp lại các “nhân vật” ban đầu, cũng tại phủ đệ ở Kim Long với nhiều bí mật được mở dần ra, những bóng ma trong đêm hóa ra người thật, khi Bình được giới thiệu đến giúp ông Hưng và bà Kén viết tiếp cuốn tiểu thuyết “Bướm Ngài”…
Sức hấp dẫn của Phấn hoa, ngoài yếu tố bối cảnh câu chuyện luôn thay đổi và cách “thắt - mở” nút khá cao tay, khéo kết hợp lối viết cổ điển với hiện đại (tiểu thuyết trong tiểu thuyết, dòng ý thức, điểm nhìn đa chiều - phần I tác giả viết ở ngôi thứ ba, nhưng phần sau lại viết với ngôi thứ nhất xưng “tôi”…) còn nhờ hệ thống các nhân vật phong phú, có cá tính rõ nét. Ngay cả Kén và Sâu, “thoạt nhìn ai cũng tưởng hai chị em song sinh với chiều cao dong dỏng, vóc người mảnh mai”, tác giả cũng khắc họa nét riêng khó lẫn: “Sâu nhoẻn miệng cười phô chiếc răng khểnh. So về sắc, cô em có phần hơn cô chị. Đôi mắt cô Kén mở to, dường như cái gì cũng làm cho cô ngạc nhiên. Đôi mắt Sâu nấp dưới hàng lông mày rậm hơi xếch, có vẻ đằm thắm dịu dàng pha lẫn chất đam mê…”. Hai nhân vật nữ có ấn tượng nhất tiểu thuyết là Bình (còn gọi là “Cá Ngần” hay “Nữ thần biển”) và Kén (tức Quỳnh Mi) tác giả tiểu thuyết “Bướm Ngài”, từ dung nhan đến tính cách, số phận còn tương phản hơn nữa. Điều thú vị là hai nhân vật, hai hoàn cảnh khác xa trời vực - Kén là công chúa, Cá Ngần xuất thân từ gia đình ngư dân, cuối tiểu thuyết lại gắn với nhau như mẹ con. Cô Kén “Tôn nữ” ở xứ sở nhiều gái đẹp đã vào ca dao (“Kim Long có gái mỹ miều/ Trẫm thương, Trẫm nhớ, Trẫm liều trẫm đi!”) - xem ra “lép vế” trước vẻ đẹp khỏe khoắn và bản lĩnh của Cá Ngần. Nhân vật Bình là hình ảnh đẹp tiểu biểu cho sự vươn lên làm chủ vận mệnh của người phụ nữ Việt Nam, dù rơi vào hoàn cảnh bi thảm sau trận bão thế kỷ cuốn sạch cả một làng biển, đến khi sống giữa chốn phồn hoa đầy cạm bẫy vẫn giữ được phẩm hạnh của mình, vẫn không quên nguồn cội; cuối tiểu thuyết, Bình đã trở về làm một cô giáo giản dị ở làng biển quê nhà…
Với nhiều chương lấy bối cảnh là cuộc sống trong phủ đệ của “ông Quận”, mặc dù đã qua thời vàng son, nhưng tác phẩm vẫn đậm phong vị Huế; từ kiến trúc nhà vườn đầy cây trái, đến đủ thứ món ăn của Huế, từ tục lệ giỗ chạp cưới hỏi đến giọng nói lời thưa… đều được tác giả miêu tả kỹ lưỡng, tinh tế. “Họ sống cùng nhau trong căn nhà rường lớn, gọi là phủ đệ rộng mênh mông với những hoành phi, câu đối, trướng liễn treo đầy… Ông Quận mê cây cảnh, như đa số nhà vườn Huế, cây và cảnh là một… Có sự hài hòa nào đó giữa màu xanh của hàng chè tàu quanh nhà với màu vôi tường ở bên trong… Cây mai hoàng điệp hay mai tứ thời được trồng trước bể nước nhỏ thả sen. Hai cây mộc, mùa xuân hoa nở trắng từ dưới lên trên…”. Và đây là Kén tâm sự với Bình về những món ăn quen thuộc: “Tháng giêng rét ngọt, nhà vườn mô cũng có rau tập tàng, là rau khoai trồng sau lụt tháng 9, rau bát bát, rau mồng tơi, rau má nấu với cua đồng cho một bát canh ngon lành… Món ăn tôi thích nhất là món môn ngọt bóp muối chấm nước mắm gừng… Tháng hai gạo kém, thức ăn như cá với tôm thì mắc, món ăn dễ dùng là cơm gạo đỏ, gạo hẻo rằn ấy với cá bống thệ rằn kho khô, thứ cá chỉ có vào mùa gặt tháng ba… Cá biển thì có cá ong. Rau cải tần ô nấu với thịt nạc hay tôm đều ngon… Tháng ba sâu nở. Tháng này có gạo chùm tía, gạo ruộng ngon nhất là gạo làng Ưu Điềm…”. Các bạn trẻ không thích phong cách “cố đô” thì đã có những chương miêu tả cuộc sống của giới người mẫu ở Sài Gòn khá là cuốn hút mà vẫn tế nhị với những cái tên lấp lánh sắc màu sàn diễn: Hồng Mơ, Trúc Đông, rồi Giọt Tuyết, Chân Tinh… Đây cũng là nét đặc sắc của văn chương Phạm Ngọc Túy. Chuyện tình trong tiểu thuyết rất éo le, hấp dẫn mà không “sex”… Cũng có thể nói, Phấn hoa là một tiểu thuyết lãng mạn nhưng không “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”, mà là tiếng nói ấm áp, gần gũi với con người bình thường nhưng biết vươn tới lẽ sống cao đẹp.
Qua nhân vật cô giáo Kén với đam mê nghiên cứu thiên nhiên và nhân vật Bình với số phận một gia đình sống chết với biển cả - hai đồng tác giả cuốn tiểu thuyết “Bướm Ngài” có quá trình sinh thành đầy bất ngờ, Phạm Ngọc Túy đã góp một giọng điệu riêng vào dòng “văn học sinh thái” đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Cũng từ đây, qua các trang văn miêu tả hay độc thoại nội tâm, tác giả đã gửi gắm những suy ngẫm đậm tính triết lý và lẽ sống mà nhân loại luôn trăn trở, bất cứ là thể chế nào. Ngay những trang đầu của tiểu thuyết, tập vở của cô sinh viên Kén đã ghi: “Hãy khích lệ những con côn trùng như con bọ rùa, ruồi trâu và những con bọ đất vào chơi nhà bạn… như một món tiền thưởng bạn có thể giảm bớt nhu cầu xịt thuốc…”. Chính Bình, đã trăn trở tự hỏi khi đánh máy và viết tiếp “Bướm Ngài”: “…Bà Mi đặt vấn đề gì trong cuốn sách của bà?” Và khi đi dạo trên con đường sâu hun hút giữa hai vòm lá giao nhau, cô nghĩ: “Đời cây, đời người. Loài bướm sống được bao ngày, đời bướm và ve đều ngắn ngủi, người nghệ sĩ mang lại cho đời cái đẹp, còn đời hoa? Hoa cũng thế. Sớm nở, tối tàn… Tại sao những mối tình đẹp đều dang dở? Tại sao?...”
Ở một đoạn khác: “Loài bướm đêm sống được bao ngày, bướm đẻ ra ngài rồi chết. Kinh Phật dạy không bao giờ có một cái chết vĩnh viễn, con ngài chính là con bướm lại sản sinh ra một lần nữa và cứ thế chu kỳ sinh sinh diệt diệt liên tục. Và chúng luôn tồn tại.
Tình yêu cũng tôn tại dưới hình thức này hay hình thức khác…”
Và rút cục, qua những gì đã trải qua, Bình cũng đã tự biết: “… Ý thức về kiếp người phù du có sớm trong tôi cùng với lời thuyết giáo của sư và những gì đã trải qua thật khủng khiếp sau cái chết của hai ngàn con người trôi ra biển đêm hôm ấy. Không những cuớp đi mạng sống của người thân mà còn tình yêu. Thầm mong trong bất cứ cuộc chia ly nào, sự sụp đổ nào vẫn còn một nẻo đường cho ta có thể hướng về tương lai. Đời bướm đêm ngắn, đời ve sầu ngắn. Người nghệ sĩ chết rồi nhưng sáng tạo nghệ thuật của người sống đến thiên thu…”.
Tôi tin rằng, tác phẩm của Phạm Ngọc Túy, sau lần “in thử” ít ỏi, sớm muộn sẽ được các nhà xuất bản có tiềm lực và khả năng phát hành ở Hà Nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh chú ý. Và như vậy, cuốn sách ghi dấu ấn “sáng tạo nghệ thuật” của Phạm Ngọc Túy sẽ được “tái” sinh để đến với bạn đọc rộng rãi hơn…
N.K.P
(TCSH366/08-2019)
NGUYỄN ĐĂNG MẠNHNguyễn Khải ở trong Nam, ít khi tôi được gặp. Tôi rất thích nói chuyện với anh. Đúng ra là tôi thích nghe anh nói.
PHẠM XUÂN HÙNG(Về cuốn Đọc văn - Tiểu luận - Phê bình của Phạm Phú Phong, NXB Thuận Hóa, 2008)
HÀ VĂN LƯỠNGChingiz Aitmatốp thuộc trong số các nhà văn lớn được độc giả nhiều nước trên thế giới biết đến. Tác phẩm của ông thể hiện những vấn đề đạo đức nhân sinh, nhân loại. Ngoài việc sử dụng các đặc điểm thời gian, không gian nghệ thuật, cấu trúc, giọng điệu tác phẩm... nhà văn còn đưa huyền thoại, truyền thuyết vào tác phẩm như là một thi pháp biểu hiện mang tính đặc trưng của ông.
TÔ NHUẬN VỸ(Nhân đọc một số bài tranh luận về cuốn THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU)
NGUYỄN KHẮC PHÊBộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ”(*) của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, được bạn đọc chú ý trước hết vì bề dày 4 tập 2000 trang với nhân vật trung tâm là người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ; sau nữa, đây là tác phẩm văn học dày dặn nhất của một Việt kiều được xuất bản trong nước.
ĐỖ NGỌC YÊN…Thơ Hoàng Trần Cương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những chất liệu, hình ảnh và ngôn ngữ của đời sống, với sự đào sâu những suy tư, khát vọng sống của con người và một vùng quê mà anh đã nặng nghĩa sinh thành...
THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.
BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.
THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.
MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.
HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.
HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự: Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập trong hòa ca Một nốt trầm xao xuyến (Mùa xuân nho nhỏ)
Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.
PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).
HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)
NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.
Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.
LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.
PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.
NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)