Góc nhìn từ khuôn mặt thứ 13

14:39 08/01/2016

NHỤY NGUYÊN  

Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

12 khuôn mặt văn nghệ Huế trong cuốn sách mới của anh, có thể xem là cuộc hội ngộ tình cờ song đều là những người có đóng góp xứng đáng cho nền văn nghệ Cố đô, xứng đáng để mọi người ngưỡng vọng.

12 gương mặt, họ là nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ, điêu khắc, nữ tu sĩ, danh cầm, dịch giả. Từ những người thiên hướng mình như họa sĩ Nguyễn Văn Tuyên hay nghệ sĩ Trần Văn Phú - “được mệnh danh là đệ nhất danh cầm guitar từ đầu thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1980, một trong những người có công truyền bá flamenco hàng đầu ở Việt Nam”, cho đến những nhân vật vang danh thế giới đơn cử như Điềm Phùng Thị, đều mang cái chất thâm trầm hướng nội, khám phá bề mặt cảm xúc tận sâu kiếp người.

Thầy Bửu Ý, “người mở cách cửa văn chương” thầm lặng qua rất nhiều tác phẩm dịch. Không đứng ở hiện tại, Lê Huỳnh Lâm hướng về người thầy bằng những ký ức hồn nhiên trong khiết. “Nụ cười hiền trên gương mặt thầy cùng với ánh mắt như trở về một thời xa vắng”. Cạnh đó là nữ tu sĩ, nhà văn, dịch giả Phùng Khánh (cố Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải), người “khơi dậy tâm từ trong con người, khai mở con đường tìm kiếm chân lý” thông qua những tác văn học và triết học dịch có sức lay động và thức tỉnh toàn nhân loại. Theo cách nhìn nhận của tác giả, con người này chính là  từ trong hoàn cảnh vật chất dư thừa đã khước từ tục lụy rẽ về miền thanh cao theo tinh thần phụng sự để rồi bước vào cảnh giới của đạo một cách trọn vẹn.

Đó là điêu khắc gia Điềm Phùng Thị. Cuộc sáng tạo những mẫu tự của bà nom như ước lệ nhưng mở ra biên độ khôn cùng. Những mẫu tự đưa bà trở thành một trong những nghệ sĩ sáng tạo hàng đầu thế giới, khiến giới hàn lâm nghệ thuật sững sờ. Những mẫu tự tiếp tục đời sống riêng của nó, tạo nên vô số tác phẩm vượt khỏi vòng tay của tác giả. Những mẫu tự luôn có sự cọ xát sinh động, tạo nên mật âm vọng về phía hoang vu cõi nhân sinh. Đây chính là cuộc hóa thân rực rỡ từ những thứ tầm thường như đất đá. 

Đó là “người đãng trí” Ngô Kha với những dòng thơ “lửng lơ ở khoảng u huyền của khói sương giữa thực và mộng, được tựu thành bởi sự dắt dẫn của thần linh, những con chữ, hình ảnh được hà hơi của thượng đế và máu trộn lẫn nỗi đau của thi sĩ”. 

Đó là họa sĩ Bửu Chỉ, người “bày tỏ thái độ sống dứt khoát với những điều ngụy trá, trở về với niềm đam mê rực cháy, trở lại với định mệnh của trời đất, về bên khu vườn của giấc mơ để làm nên điều kỳ diệu của một nghệ sĩ”. Lê Huỳnh Lâm chỉ ra những nét tinh hoa trong sự nghiệp của Bửu Chỉ, bằng tài năng nhồi luyện sắc màu diễn tả khát vọng hòa bình; anh còn nhìn ra sự phối kết âm dương trong bố cục tranh Bửu Chỉ, cũng là sự hòa quyện giữa hai nền văn hóa Đông Tây. Và sau nốt, thân phận con người nhỏ bé giữa bao la, sự ngắn ngủi của con người so với chiều thời gian bất tận vẫn là nỗi ám ảnh, chi phối đến sự cô đơn trong tranh và chính đó lại “chuyển giao” sự ám ảnh đến người xem như một sự khúc xạ nhiệm màu.

Những danh xưng nêu lên, đôi khi tưởng như một phản ứng dây chuyền. Nói về dịch giả Bửu Ý, không thể không nhắc đến Trịnh Công Sơn - người bạn rất thân với ông. Rồi “một trong những bậc thầy về sơn dầu của thế hệ trước còn lại”, họa sĩ Đinh Cường lại là một người bạn của Trịnh với biết bao kỷ niệm trong “khu vườn lộng lẫy của những cung bậc ký ức”. Nhiều nhân vật trong cuốn sách luôn có sự tương tác qua lại làm cảm hứng cho nhau. Chẳng hạn một Trịnh Công Sơn sáng lên nơi Cổ thành của Hoàng Đăng Nhuận; họa sĩ Bửu Chỉ thì vẽ chân dung Hoàng Đăng Nhuận, Trịnh Công Sơn; Đinh Cường vẽ rất nhiều về Trịnh, cạnh đó là chân dung Lê Văn Ngăn, Trần Vàng Sao và Ngô Kha, đôi lúc xem qua tưởng như nét cọ xuất thần vụt hiện hình hài; cái chết bí ẩn của Ngô Kha tạo nên rung cảm mạnh mẽ để Bửu Chỉ vẽ bức tranh đầy nhân văn và đau đớn. Hai tài danh Đinh Cường và Bửu Chỉ, Lê Huỳnh Lâm nhìn ra những khác biệt tinh tế về sự thể hiện cái đẹp. Họa sĩ Đinh Cường sinh sống bên trời Tây, thiếu nữ trong tranh ông luôn “hướng về một cõi chờ mong với màu xanh làm chủ đạo đã gợi lên một không gian của nỗi nhớ”, tiêu biểu là những dáng hình mong manh lụa là ẩn kín mà chỉ nhìn qua cũng gợi đến một Cố đô trầm mặc u hoài. Còn họa sĩ Bửu Chỉ đắm mình ở Huế lại dùng gam màu nóng thể hiện ý hướng bản năng ẩn sau “vẻ ngây thơ của sự thần bí”, “gợi lên một nỗi sầu muộn của niềm khát khao về thế giới bên ngoài...”.  

Lê Huỳnh Lâm nhận ra “chất hoang dã” (với gam màu xám) trong tranh Hoàng Đăng Nhuận, kể cả loạt tranh ông vẽ phố bằng màu tro lạnh, nhằm “hướng người xem đến một không gian khác của cuộc sống, nơi đó có thể là một giấc mộng, một cơn hoang tưởng”. Chính điều này “khiến tranh Nhuận có sức sống lạ thường, không ngả nghiêng, ảo diệu như Phố Phái”. Anh nhận ra chất thủy mặc trong tranh Nguyễn Văn Tuyên. Những ngón tay (chứ không phải nét cọ) của người họa sĩ sống nép mình sau lớp lớp sương mù của dòng Hương này đã làm “loang chảy và tan rữa rất tự nhiên qua các phổ màu”, “dẫn dắt người xem vào thế giới của những cảm xúc nguyên sơ”.

Tác giả còn nhận ra nỗi giằng xé của [hai] con người Trần Vàng Sao (tên thật là Nguyễn Đính); một điểm nhìn nhạy cảm song hết sức thú vị và đầy thuyết phục: “Nguyễn Đính đã không thể nhập vai vào Trần Vàng Sao, ông bỏ thành phố lên núi rừng để làm cách mạng, nhưng định mệnh xô đẩy ông rơi vào hoàn cảnh nghiệt ngã, để nhân vật Trần Vàng Sao có cơ may chiêm ngắm những gì mà Nguyễn Đính đã nếm trải. Cũng chính cái chất thi sĩ Trần Vàng Sao lớn quá nên đã dẫn dắt cái thân xác Nguyễn Đính đi theo quỷ đạo mà Trần Vàng Sao đã linh cảm”.

Ở một góc nhìn khác. Khi Lê Huỳnh Lâm chép lại chân lý “tôn giáo đích thực không bao giờ đồng hành với cái ác mà luôn hướng thiện và góp phần cho xã hội tốt đẹp hơn”, thì trong những tác phẩm tranh của Trần Vàng Sao vẽ Đạt Ma tổ sư, Đinh Cường vẽ chân dung hành giả Niệm A Di Đà Phật, lời kinh trong nhạc Trịnh trở nên lấp lánh và thuần khiết hơn bao giờ hết.

Ấn tượng nhất hẳn là ngay ở tiêu đề mỗi bài viết, Lê Huỳnh Lâm đã đưa ra một định đề khái quát khó xê dịch, khó thể cô đọng hơn về cuộc đời và sự nghiệp của họ: Dùng “màu sắc để diễn đạt cảm nghiệm sâu xa của mình về thời gian và thân phận con người”, Họa sĩ Bửu Chỉ - triết gia của màu sắc; Điềm Phùng Thị - Cuộc hóa thân của đất đá; Nguyễn Văn Tuyên “người vẽ phong cảnh trên những ngón tay buồn”; “Bóng tối đổ xuống như bình mực tràn trên trang vở, giữa màu đen chỉ còn nhịp thở của người ngồi nghe tiếng chó sủa” - đó là Trần Vàng Sao - Người viết nhật ký bằng thơ; Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - Tiếng nhạc như lời kinh, “thức dậy lòng nhân ái trong mỗi con người và chuyên chở một ước vọng cao quý”; Lê Văn Ngăn - Thi ca như một tín điều. Xem thơ ca là tín điều, Lê Văn Ngăn chính là tín đồ, thầm lặng sống, thầm lặng kể về những “nỗi đau trong cuộc sống này”. “Nhạc tính trong thơ ông tự nhiên như hơi thở, như dòng sông đang trôi, như ngọn gió chiều bên hiên nhà và thanh thoát như tiếng hót của loài Dạ Oanh, một biểu tượng của thi ca thuần khiết, luôn canh chừng và thức tỉnh giấc mê của đồng loại”.

Đồng cảm với tác giả tập sách 12 khuôn mặt văn nghệ Huế, hẳn người đọc sẽ dễ bỏ qua những khiếm khuyết trong dòng cảm xúc dâng tràn của Lê Huỳnh Lâm về những đối tượng mà riêng anh quá ngưỡng vọng.

N.N
(SDB19/12-15)

 




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.