Góc buồn phảng phất

15:17 20/08/2008
VỌNG THẢO(Về tập sách "Vì người mà tôi làm như vậy" của Hà Khánh Linh – NXB Hội Nhà văn – 2002)

Sinh ra và trưởng thành trong chiến tranh, soi mình vào nghiệp viết, Hà Khánh Linh là một trong những nhà văn nữ hiếm hoi sau 1975 vẫn không ngừng dằn vặt, khắc khoải những nỗi buồn chiến tranh từ ký ức. Đã xuất bản trên 10 tập sách, gần đây nhất, Hà Khánh Linh bất ngờ một "góc buồn phảng phất" với cái nhìn trẻ trung, hiện đại và đặc tả mới cho tập sách "Vì người mà tôi làm như vậy" – một góc buồn chín đầy tâm tưởng!
Đây là một tập truyện mà khi cầm trên tay, bạn đọc sẽ không khỏi tò mò, băn khoăn về nhan đề. Một nhan đề vừa lạ, vừa quen? Quả thực, nó trùng với tên của một vở diễn trong chương trình biểu diễn của Festival Huế 2000. Tuy nhiên, không "mượn" sống sượng nhan đề vở kịch Pháp cho tập truyện ngắn và tên truyện của mình, bắt nguồn từ cảm hứng vở kịch đầy ắp sự thách đố diễn giải đa chiều, bằng trí tưởng tượng vô cùng phong phú, nhà văn đã khéo léo dẫn dắt người đọc đi vào một cuộc tình thơ mộng giữa chàng đạo diễn vở kịch và người con gái xứ Huế mộng mơ. Những tình tiết của cuộc tình ấy không "vượt biên" ra khỏi miền chiến tranh – miền ký ức của nhân vật. Ngay trong miền ký ức, người đọc đã phảng phất được một nỗi buồn riêng. Đâu là không gian? Đâu là thời gian? Không còn ai để ý... Vì hình như cả người viết lẫn người đọc đã chung cục trở thành nhân vật phụ, chứng kiến, hóa thân vào những kỷ niệm, buồn đau và thức tỉnh với con người Dayan.
Trong tập truyện, ngoài sự dụng công khá đặc biệt của các nhan đề như lấy nhan đề – cảm hứng từ một vở kịch, một câu thơ, hay một truyện ngắn trước đó của chính mình... để khởi phát một câu chuyện hoàn toàn khác, nhà văn còn rất trẻ trung trong lối đặc tả "chồng mờ" (ngôn ngữ điện ảnh) để gắn kết nhiều lớp nhân vật. Nếu Hà Khánh Linh chỉ để cho chàng đạo diễn Joseph Dayan của vở kịch "Vì người mà tôi là như vậy" đi tìm một Thục Quyên năm xưa, để rồi chỉ tìm thấy những tàn tro kỷ niệm thì nhan đề truyện, kết cấu và cách kết thúc đã mất đi khá nhiều sự đa nghĩa. Cô em gái của Thục Quyên – một "nàng Huế" Thục Anh tiếp tục câu chuyện cũ bỏ dở trong những chắp vá hồi ức như tô đậm thêm phần thơ của truyện, vừa bất ngờ, vừa cảm động. Sự bất ngờ và cảm động xuất phát từ lối đặc tả "chồng mờ" của nhà văn cũng đi sâu khai thác nhiều biến cố tâm lý của nhân vật từ kỷ niệm chiến trường qua một chiếc ly có khắc danh của nữ nhà báo đến cuộc tình sinh viên khá phổ biến của thời hiện tại (Trần Thúy Vy), từ những ký ức máu lửa đã tinh kết vào mơ ước "Viên ngọc trai màu đỏ" của đôi trai trẻ Hạnh – Lạc, những công dân miệt đầm đến cuộc tình bi tráng của thím Phước, chú Ngọc... xa hơn nữa... là một viễn tượng phảng phất buồn, phảng phất niềm thương cảm của cuộc tình Trọng Thủy – Mị Châu...
Những cốt truyện tưởng chừng quen thuộc theo lối đặc tả ấy đã sinh động hẳn lên, lung linh hẳn lên trong gạch nối buồn xưa – thế sự nay.
Có lần, nóivề những tác phẩm của mình, Hà Khánh Linh khẳng định: "tôi là một nhà văn trưởng thành trong chiến tranh. Hầu như tất cả các nhân vật của tôi đều bước ra từ chiến tranh. Các nhân vật của tôi dù là vị tổng thống, chủ tịch nước, người thợ hay người công nhân... hay bất cứ ai thì vẫn là người sinh ra và trưởng thành trong chiến tranh". Đan kết một không gian xung động mâu thuẫn và gắn liền, trong tập truyện "Vì người mà tôi làm như vậy", tác giả đã "nhân" hệ thống nhân vật lên những tầng thế hệ mới, hòa nhập vào đời sống hiện đại, bằng con mắt tinh tế mà tha thiết những vui buồn bất trắc, những day dứt chiến tranh. Không gian xung động trong truyện của chị, với cách mở rộng nhân vật như thế, vẫn tiếp tục là tiếng vang của thực tại từ ký ức, của "trong chiến tranh và sau chiến tranh". Một nỗi buồn phảng phất. Một tình yêu vô vọng không bến dừng. (Nhịp tim mùa xuân). Một thảng thốt kỷ niệm chiến trường ắp đầy nước mắt, sự nghiệt ngã đạn bom nhưng ấm áp tình người (Đập cổ kính ra tìm lấy bóng...) Trên cái nền ký ức, nhân vật cũ của nhà văn bước chân vào đời, hiện đại và gần gũi hơn với những tình tiết của đời sống hiện thực này.
Chiếm dung lượng 1/3 tập truyện là truyện "Người cắm hoa nhà thờ" – Không gian của truyện vừa này rất hẹp, chảy theo dòng ký ức, theo nỗi buồn như khói như sương của người trinh nữ suốt đời dâng nguyện đời mình cho niềm tin Thiên Chúa. Theo bước chân của Lộ Đức, người đọc không vọng niệm về nhân vật một tạp âm nào, mong manh mơ hồ là cảm thức về đường nét ảo mờ như Huệ tím (Iris) với những yếu tính Đông Phương mềm mại và trinh trắng vô ngần. Nếu như Iris của H. Hesse là hướng đạo của cuộc hành trình chàng Anselm đi tìm một đức tin khi biết "chúng ta hiện hữu ở trên quả đất này có ý nghĩa cho sự hồi tưởng, tìm kiếm và lắng nghe những hình dáng màu sắc âm thanh đã mất, và quê hương thật sự của chúng ta là ở đàng sau đó", thì Lộ Đức lại là biểu tượng của thiên tín nữ nâng niu sự cứu rỗi và phụng sự cho một quê hương tinh thần, nâng niu sự hòa nhập nội tâm vào những góc buồn ký ức.
Dưới những góc nhìn của mình, văn của Hà Khánh Linh bao giờ cũng là một sự kết hợp giữa phóng sự, ký và những câu chữ được chắt lọc từ chất thơ mềm mại nhất. Dung chứa nhiều số liệu, sự kiện, văn mạch của chị bạo liệt và xông xáo. Câu văn vừa mộc mạc vừa có "duyên ngầm" nhưng đôi lúc cũng là một nhược điểm khiến người đọc, nhất là độc giả trẻ ít hào hứng với "giọng văn chiến trường”. Cùng với tính bạo liệt, sự khái quát của nhà văn như một cánh cửa mở ra nhiều cánh cửa nhỏ, như một mặt biển rộng bao la những gợn sóng buồn. Phải chăng, chính vì vậy mà đến với tập truyện này, người đọc muốn liên tưởng đến một câu thơ đã phảng phất cái phong vị của lá thu đang gói những sắc trời, để ẩn lánh nỗi buồn bằng cách tìm gặp những nỗi buồn:
Nhặt nỗi buồn
Xem trăng lặn trên tay.
(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
rồi cũng biết... "Vì người mà tôi làm như vậy "!
V.T
(nguồn: TCSH số 159 - 05 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".