Gõ cửa web các nhà văn nữ

17:15 02/10/2008
Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

Sông Hương vừa thực hiện một cuộc du hí vào trang Web (bao gồm Website và Weblogs) của các nhà văn nữ, chiêm ngưỡng các kiểu dáng làm đẹp, làm lạ, làm mới mình từ tay các webmaster và chợt nhận ra rằng, đấy chính là “gia đình nội tâm” của họ. Ở đây, song hành với chuyện văn chương là sự cập nhật mọi thị kiến đời thường, mọi ngộ niệm tâm linh, mọi buồn vui cắc cớ... của những tâm hồn nhạy cảm và hướng thiện.
Phần nội dung mà Sông Hương ngẫu hứng “cắt lát giao diện” trong chuyên mục này không ngoài mục đích giúp quý bạn quan tâm biết thêm một số trang Web có “cá tính” của các nhà văn nữ Việt Nam (mà có thể bạn chưa biết) đã được “xếp hạng” trên alexa.com

DẠ NGÂN

Sinh năm Nhâm Thìn, 6 tháng 2 năm 1952
Quê gốc ở miệt vườn cổ Cao Lãnh sông Tiền

http://dangannga.googlepages.com

LGT: Sẽ là không thoả đáng nếu cho tản văn là một dạng “ngoáy bút” làng chơi. Tản văn đôi khi ngắn hơn cả khoảnh khắc cầu nguyện của một con chiên ngoan đạo nhưng nó vọng động đến góc tối tăm nhất của sinh linh vạn vật.
Không thể đòi hỏi ở tản văn điều gì lớn lao như sự cứu rỗi hồn người vốn là
chân tượng của truyện ngắn và tiểu thuyết. Đơn giản ấy là chút hướng thiện vào đời, tản văn đang dần có chỗ đứng trang trọng trên hầu hết các mặt báo giữa thời đại chỉ với một ký tự nhưng không kém phần phức tạp: @!

Gương mặt chữ điền

Tình cờ tôi vừa xem bộ phim tài liệu truyền hình khá dài về nghệ sĩ nhân dân Bảy Nam - mẹ đẻ của nghệ sĩ Kim Cương. Ai từng ngưỡng mộ thời vang bóng của sân khấu Sài Gòn, chắc sẽ rơi nước mắt như tôi với bộ phim tài liệu này. Chúng ta sẽ khóc vì nhiều lẽ, những vở diễn bề thế như xưa không còn, những nghệ sĩ tài danh tứ tán, những cánh chim đầu đàn bắt đầu tàn kiệt như lá mùa thu. Đến đoạn nghệ sĩ nhân dân Phùng Há và nghệ sĩ nhân dân Bảy ôm nhau rồi cả hai ngôi sao quỵ xuống, trong tôi vỡ oà xúc động, như xem hồi kết của một vở tuồng.
Nửa đầu thế kỷ trước, không ai hiểu vì sao ở miền Nam mà cụ thể là ở miền Tây Nam Bộ lại sản sinh được nhiều tài năng sáng chói như vậy. Năm Phỉ, Bảy Nam, Phùng Há… những viên đá nền để sau này có kỳ nữ Kim Cương, hồng ngọc Thanh Nga, chi bảo Bạch Tuyết, giọng vàng Lệ Thuỷ… toàn những con người từ bờ bãi Cửu Long lớn lên, yêu nghệ thuật ngang bằng với tình yêu đất nước. Thật lạ. Nếu thời tiền chiến 1930 - 1945 ở miền Bắc nở rộ những tài năng văn chương nhạc kịch trong hoàn cảnh mất nước thì ở miền Nam, điều đó đã lặp lại từ 1950 đến 1975. Và nhiều nữ, rất nhiều tác gia và nghệ sĩ là nữ, những người mà bà và mẹ của họ còn chưa thoát dốt, còn nặng chữ tứ đức tam tòng, còn chưa ra khỏi bến sông.

Gương mặt phúc hậu của má Bảy nhắc tôi nhớ đến bà nội của mình. Sao lại có sự giống nhau kỳ lạ như vậy? Má Bảy người Tiền Giang, bà tôi người Cao Lãnh - Đồng Tháp, cũng phù sa sóng nước sông Tiền cả. Gương mặt chữ điền, trán vuông, cằm vững, mũi hơi to, gò má rộng, nhìn họ sẽ thấy ấy là con người nghị lực, thấu đáo nhưng vô cùng phúc hậu. Trong phim Má Bảy diễn lại những vai bà mẹ nghèo, cái khăn rằn sọc trắng đỏ, cái khoé môi có cả nước cốt trầu, cái đôi vai chúi xuống khi đau khổ, cái cách ấp góc khăn vào mặt khóc không thành tiếng… chao ơi, một bà má miền Nam điển hình, cô đọng, từng trải mà không nhiều lời. Tôi dám chắc khi xem bà diễn, ai người chưa hiểu miền Nam sẽ thấy gương mặt chữ điền là tuyệt đẹp - chứ không phải mặt trái xoan - và sẽ thấy yêu con người Nam Bộ, yêu hơi thở sông nước, yêu bãi yêu bờ, yêu sự toàn vẹn của đất nước mà cha ông đã tạo dựng nên.

Đa số phụ nữ miền Bắc có gương mặt trái xoan nhẹ nhõm, đa số chị em miền Trung có gương mặt vuông cương nghị và hầu hết phụ nữ miền đều có gương mặt chữ điền. Điền là ruộng, mà ruộng là đồng, là đất, và điền cũng là sự bền vững mà tôi đang nhớ và thầm cảm ơn. Vì đó là má Bảy Nam và gần gũi hơn, đó là bà tôi, người đã cho tôi máu thịt, gương mặt, tình cảm, văn hoá và cốt cách làm nên ngòi bút của mình hôm nay. Tôi tự hào với gương mặt chữ điền.

Cười tràn       

Có một câu tổng kết của người ngoại quốc dành cho người Việt khá chí lý: ăn nhanh, đi chậm, nói lớn, hay cười. Ăn nhanh, rõ rồi, từ lúc mới biết ăn đã luôn luôn nghe giục: nuốt đi, nhanh đi, cái đồ! Mới có vài ba cái răng đã bắt ăn, ép ăn, suốt ngày ép ăn chỉ vì không có sữa, trẻ con không có sữa tốt để uống dặm thêm nên lấy cái ăn làm nền tảng. Ăn sớm, nhai không được sinh ra biếng ăn, vì vậy bị quát mắng suốt từ nhỏ. Lớn lên thì ăn nhanh để còn đi bộ đến trường hoặc đi làm giúp cha giúp mẹ. Đi chậm, chính tôi cũng không hiểu sao ai cũng đi chậm, bây giờ thấy cánh già bỗng nhanh nhẹn, hăng hái hơn vì họ đi thể dục trong khi cánh thanh niên lưng dài vai hẹp lại hay lê dép lững thững đến quán cà phê sáng. Vả lại, dân mình đi đâu một quãng nếu không xe máy thì cũng xe đạp, ở vùng sâu đã có ghe đi xuồng làm chân mà đôi chân ấy không dẻo không sinh động như nhiều dân tộc khác vì không biết nhảy múa. Quả thật, nhìn một đám người Việt trên đường phố nước ngoài thật giống những giề lục bình trôi so với bước chân hăm hở ào ạt của dân bản xứ. Nói lớn, đương nhiên, đất nước tám chục phần trăm là nông dân nên nói lớn quen rồi, đồng ruộng bao la, sông nước trải dài, không nói to sợ người ta không nghe thấy, cứ thế ngồi giữa nhà bê tông ở phố xá vẫn nói năng nổi hết gân cổ như thường.

Cười, chắc phải dừng lại với cái chỗ hay cười của người Việt. Chúng ta là dân tộc thân thiện, điều này ai cũng thừa nhận, một dân tộc hiếu khách và rất dễ cười. Gặp nhau, không cười để thay câu chào coi như sẽ bị xem là “người không có miệng”, đến đám tiệc, dĩ nhiên, tiếng cười át cả tiếng nói và tiếng nhạc, vui quá nên đáng cười chứ sao. Nhưng đi đám ma gặp nhau cũng phải nhếch cái miệng lên cười, nghiêm trang được lúc xếp hàng đi viếng, còn thì đố ai nhịn được cười suốt đám - trừ thân nhân của người quá cố. Bây giờ dân ngoại quốc mới ngạc nhiên thực sự, đám tang nào cũng đông, mà lại có vẻ vui, không vui sao nhiều người nói cười thế?

Đã có mấy người bạn nước ngoài hỏi tôi một cách nghiêm túc về đặc điểm hay cười này. Chính tôi cũng hay cười trong khi bụng mình không muốn cười một chút nào, ví như bất thần đi lướt qua người hàng xóm mà mình không thích trên đường, ví như thinh không lại chạm trán mới hay bộ mặt đằng đằng của sếp ở cầu thang, ví như tình cờ gặp những người cao tuổi trong đám tang mà nếu không he hé cười và khẽ gật đầu chào thì không đúng lễ… Cười là đặc tính văn hoá hay vì mình là con người của đất nước nhỏ bé dập bầm nên cười cho qua, cười cho át, cười cho phỉ, cười cho lành, cười cho mạnh, cười cho đỡ phải khóc… nên cười mãi thành thói quen, thành một phản xạ không cần điều kiện nào cả?
Hình như có tất cả ý nghĩa ấy trong nụ cười của người Việt, bạn thử ngẫm cùng với tôi xem.

Bức tường gạch cũ

Một nghệ sĩ nhiếp ảnh người Pháp, bạn của chúng tôi mỗi khi chụp ảnh người Việt đều thích lấy cái phông tường cũ. Thông thường, ai cũng muốn mình lên hình đẹp, chung quanh nếu không hoa lá thì cũng một khung cửa sổ mơ màng, nếu là phông tường thì cái vách ấy phải phẳng và sáng. Một người phụ nữ khá xinh, áo quần tươm tất mà bị “dí” vào một bức tường lở lói để chụp, chắc chắn bức ảnh có giá trị nghệ thuật chứ không phải thứ cho chủ nhân lồng khung treo lên để khách khứa ngắm mình.
Nhưng đây là nghệ sĩ nhiếp ảnh ngoại quốc, không dễ yêu cầu. Có rủ họ đi đám cưới, a lê, đi cho biết nhưng cũng không thể khiến họ chụp cho vài pô cụng ly cười cười nói nói. Cậu ta ở trong nhà chúng tôi, “ba cùng” rất giỏi, mỗi chuyến sang Việt Nam lại vác máy đi về một vùng, khi về, đổ ảnh ra, toàn là những gương mặt và cảnh sống làm mình là người Việt mà cũng chạnh lòng: những nếp nhăn trên gương mặt một cụ bà, những ánh mắt sáng quắc vì đói của một em bé miền núi, một vũng nước sau trận mưa đêm ở một quãng đường vắng, một người cầm dù đi lẻ loi trên phố buồn…

Tôi ngắm những bức ảnh của mình. Tay nghề của nghệ sĩ “tây” có khác. Tôi thích nhất bức ảnh nửa người, phía sau là một bức tường gạch đặc trưng của Hà Nội. Hà Nội là thế nào trong con mắt người nước ngoài? Chắc chắn Hà Nội rất đông người, đi bộ trên phố cổ là cùi chỏ chạm nhau, Hà Nội nhiều rãnh cống lộ thiên và nhiều rác, Hà Nội nhiều hồ còn vỉa hè thì nhiều hàng quán đến mức không có lối đi. Ngành du lịch chúng ta hay hí hửng, Hà Nội xanh sạch đẹp, không đâu, du khách nước ngoài không tìm đến vì những thứ đó mà vì những thứ khiến họ như đi ngược lại, đi lùi về, đi giữa những thứ mình không sao tìm thấy ở một nơi quanh năm sạch sẽ ngăn nắp trau chuốt lạnh lẽo bên nước nhà. Họ đã phát hiện dễ dàng điều người sở tại nhàm chán và họ thú vị vì sự khác lạ đó.

Một bức tường lở lói rất dễ tìm thấy ở bất cứ khu phố nào của Hà Nội. Càng đọc kỹ bức tường sau tấm ảnh của mình, tôi càng thấy nó chứa đựng nhiều ngôn ngữ thông tin: khí hậu, mức sống, can qua, bể dâu, thăng trầm, nỗi niềm, hiện tại, tương lai… Thủ đô một nước đất đai chật chội gấp đôi Trung Quốc, lại không được qui hoạch vĩ mô một cách vững chãi lâu dài, làm sao không chen chúc, tróc lở và ngột ngạt trong thứ thời tiết hè thì oi ả mà lạnh thì ẩm mốc rong rêu? Bức ảnh cho tôi nỗi buồn của chính mình, buồn đến mức có “cãi” cho vui cũng không thể được, như là bị điểm huyệt vậy.
D.N
(nguồn: TCSH số 224 - 10 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...

  • PHAN VĂN LAITrong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Huế đã nổi lên là một chiến trường xuất sắc, được Đảng, Chính phủ tặng danh hiệu: “Tiến công nổi dậy, anh dũng kiên cường”, được Bác Hồ khen ngợi: “Bác rất vui mừng vừa qua Huế đã đánh giỏi, công tác giỏi, thu được nhiều thắng lợi to lớn” và được cả nước tự hào về Huế.