Tính đến năm 2016, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hà đã sở hữu sáu tập thơ (Gửi con lời ru, Đi ngang chiều gió, Cỏ mặt trời, Người gánh vô hình, Đứt dải yếm, Ngả vào nguyên khôi), một tập tản văn (Lạc trong đêm liêu trai), ba tập truyện ngắn (Đầm ma, Ám ảnh, Con sóng màu hổ phách), một tiểu thuyết (Mưa trong nắng). Đó là những con số biết nói. Đôi lúc tôi cứ vân vi mà nghĩ rằng, người phụ nữ mảnh mai, dịu dàng này lấy đâu ra sức lực để viết được cả ngàn trang sách như thế, nếu không là đam mê chữ nghĩa, văn chương. Hẳn là cái nghiệp!
Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hà
Tôi đọc thơ Nguyễn Thị Ngọc Hà trước khi đọc văn xuôi của chị. Đọc và hình dung thơ, văn Nguyễn Thị Ngọc Hà (ban đầu) như bên lở, bên bồi của một dòng sông mang nặng phù sa. Có lúc thì bên bồi nhận phù sa là thơ và ngược lại. Có lúc (về sau) thì lại như hai bờ sông không có đê vùng đồng bằng Nam Bộ xưa. Một vùng bao la thông thủy, nên phù sa chia đều cho cả hai. Bờ nào cũng được bù đắp phù sa trù mật, tươi tốt. Nói nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hà đứng giữa đôi bờ văn thơ chính là như thế.
Phải thành thực mà nói rằng tôi không sành thơ. Sở trường của tôi là bình văn (văn xuôi). Vậy nên khi đọc thơ Nguyễn Thị Ngọc Hà, thấy hay đấy mà không “vê” lên được. Chỉ biết thơ người này thấm đẫm tình cảm, nhiều khắc khoải, nói thầm nói thì, lắng đọng và buồn. Và đắm đuối. Và cả nhiều cảm thông, chia sẻ. Thơ Nguyễn Thị Ngọc Hà đôi khi đọc xong, riêng tôi cảm thấy chưa thấm thía ngay, thường phải đọc lại hơn một lần. Có những nhã thú văn chương đến với chúng ta chậm nhưng chắc và bền. Chị không mấy cầu toàn về câu chữ khi viết thơ, tôi hình dung như thế, mà cốt tìm cách nói cho được hết cái tình của mình. Thơ Nguyễn Thị Ngọc Hà, vì thế, nhiều tình ý.
Tôi gọi là thơ tình tứ. Cái cấu tứ lớn nhất xuyên suốt toàn bộ thơ Nguyễn Thị Ngọc Hà là “ngả vào nguyên khôi” (như tên tập thơ thứ sáu của chị). Trong cõi trần gian làm gì có nguyên khôi, bởi con người đang tự giam cầm mình trong một thế giới ô nhiễm (và nguy hại nhất là ô nhiễm văn hóa). Nguyên khôi chỉ có hoặc trong khoảng không vũ trụ, hoặc trong thế giới tâm linh siêu thoát. Những câu thơ của Nguyễn Thị Ngọc Hà khi đọc lên khiến tôi có cái cảm giác nhẹ bẫng như vừa được trút bỏ bụi trần: Trút bốn mùa/ Tầm gai/ Tơ lụa/ Ta bước qua tấm thân trần tục của mình/ để ngả vào sự tinh khiết của hoa/ Nhờ hương thơm thuần hóa nỗi đau…/ Không chịu cũ (Ngả vào nguyên khôi).
Có cảm giác Nguyễn Thị Ngọc Hà vẻ như xưa cũ khi viết: Có câu thơ buộc túm tiếng ve/ Treo lơ lửng ngọn me cành sấu/ Có tình yêu vụng nơi cất giấu/ Mượn lá sen ủ giữa cốm Vòng/ Tôi lang thang tận có và không/ Bất chợt gặp hồn muôn năm cũ (Có một Hà Nội trong tôi). Đọc những câu thơ như thế cảm nhận thêm về tinh thần “sắc sắc không không” trong thơ Nguyễn Thị Ngọc Hà (hình như người thơ này thường lơ lửng giữa có và không). Lại nữa rất đậm chất Hà thành với những ve, những me, những sấu, những cốm Vòng, những sen… - những sản vật nghìn năm của đất Thăng Long văn hiến.
Tôi thấy người thơ Nguyễn Thị Ngọc Hà thường đau đáu với những “miền trinh nguyên”, hơn thế cả với những “nơi nắng rơi không vỡ” (cũng là nhan đề những bài thơ được nhiều người ưa thích của chị). Người thơ này có một niềm mong ước giản dị nhưng đầy chất men lí tưởng, thậm chí phảng phất cái vẻ không tưởng: Để lũ trẻ sau anh sau em/ Được bình yên nơi nắng rơi không vỡ. Ai đó gọi đây là sự thơ ngây không có tuổi của người thơ Nguyễn Thị Ngọc Hà. Tôi thích sự thơ ngây trong trẻo đó. Tôi gọi đó là con mắt xanh của nhà thơ lúc nào cũng hướng cái nhìn tới sự tươi sáng, tốt lành. Nói cách khác là cái nhìn hướng thượng, hướng thiện, hướng mĩ.
Một người thơ như thế sẽ ghi dấu ấn như thế nào trong văn xuôi? Trong trong ba thể loại văn xuôi (tản văn, truyện ngắn, tiểu thuyết) thì Nguyễn Thị Ngọc Hà bén duyên với truyện ngắn có lẽ vì nó gần với thơ hơn cả. Trước hết nó cần cấu tứ mới, nó cần hàm súc, nó cần liên tưởng và ám ảnh. Tôi nghĩ, với ba tập Đầm ma, Ám ảnh và Con sóng màu hổ phách, Nguyễn Thị Ngọc Hà đã xứng đáng là một tác giả truyện ngắn thực thụ.
Truyện Đầm ma (2004) đã mở cánh cửa để nhà thơ bước vào lĩnh vực truyện ngắn. Truyện này đã được tiến sĩ văn học Nguyễn Huy Liên cùng dịch giả Charles Waugh tuyển chọn, dịch và được nhà xuất bản Trường Đại học Georgia (Mĩ) ấn hành trong tập truyện Family of Fallen Leaves. Truyện này thành công, theo tôi, vì nó gắn với những luận đề xã hội trọng yếu (chiến tranh và số phận con người, đặc biệt hậu quả của chất độc da cam/ dioxin đã tàn hại hơn ba triệu nạn nhân người Việt Nam). Dư ba của truyện như một lời cầu nguyện cho mọi linh hồn những người đã chết và cả những người còn sống.
Đa số truyện ngắn của Nguyễn Thị Ngọc Hà thiên về những cảnh đời, phận người dang dở, do hoàn cảnh xô đẩy, do số phận định đoạt. Một miền cúc, một truyện khác của Nguyễn Thị Ngọc Hà có cấu tứ gần với tứ thơ. Cô gái tên Hoài với những dang dở trong cuộc đời đúng là mẫu người của những thân phận “bến không chồng”. Dẫu có bầm dập với đời thì cuối cùng cô vẫn có một miền để trở về, đó là quê hương, đó là mẹ, là thiên nhiên. Hoa cúc thơm nhưng hương thơm có vị đắng và Hoài “bỗng thấy trong tâm hồn mình cũng ngai ngái đắng như loại hoa cúc kia”.
Truyện ngắn của Nguyễn Thị Ngọc Hà thường như thế - cuộc đời cứ dang dở, tình duyên cứ đứt đoạn, tâm hồn cứ “thiếu” và “hụt”. Không có một cái gì là nguyên vẹn. Nên “ngả vào nguyên khôi” là một khát khao, đôi khi không tưởng, nhưng vì thế mà nó dẫn dụ, mê hoặc con người. Con sóng màu hổ phách là một truyện mang cảm hứng đương đại, dồi dào và sắc nét. Đó là chuyện ái tình và tiền bạc muôn thuở. Đó là vẻ đẹp của tâm hồn bao giờ cũng phải trải qua thử thách của lửa đỏ và nước lạnh. Đó là vòng luân hồi của kiếp người.
Viết truyện ngắn, Nguyễn Thị Ngọc Hà không chú tâm vào những khoảnh khắc mà là cả một chu trình nhân - quả của đời người. Vì thế trong mỗi truyện ngắn đều có thể nhìn thấy những mầm mống của tiểu thuyết. Một truyện ngắn là một cái cốt của tiểu thuyết, hiện tượng này tôi quan sát thấy trong mối tương quan qua lại giữa truyện ngắn Ông Thuận say (in trong tập truyện ngắn Ám ảnh) với tiểu thuyết Mưa trong nắng (Giải thưởng cuộc thi viết tiểu thuyết, truyện và kí về đề tài “Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống” lần thứ ba, 2012-2015, do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức). Từ truyện ngắn đến tiểu thuyết không có nghĩa là “cơi nới” mà là tổ chức lại chất liệu, kết cấu, đòi hỏi gia công đầy đủ theo yêu cầu của thể loại. Nguyễn Thị Ngọc Hà là người thơ, người thơ này tất nhiên sẽ ưa thích những gì ngắn gọn, cô đúc, hàm súc. Chị rất có ý thức về “sở trường sở đoản” của mình trong nghề viết, tôi nghĩ vậy.
Đọc Nguyễn Thị Ngọc Hà, thấy rõ cái dụng công trau chuốt câu chữ của tác giả. Bài thơ Hồn chữ gọi tình yêu (trong tập thơ Ngả vào nguyên khôi), theo tôi, ánh phản cái “vân chữ” của Nguyễn Thị Ngọc Hà khi viết về sự “mồ côi” người yêu của một thôn nữ mới lớn, mới yêu lần đầu, mới nuôi bao nhiêu là hi vọng vào hạnh phúc lứa đôi. Chiến tranh tàn khốc đã cắt ngang số phận họ: Người con gái quê nhà/ Vẫn ôm cau vàng trầu úa/ Tránh nhìn trăng tròn/ Để không thấy mình đã khuyết. Chữ thơ của Nguyễn Thị Ngọc Hà rất giản dị, giản dị đến mức đôi khi như lời ăn tiếng nói thường ngày.
Nhưng câu chữ trong văn xuôi Nguyễn Thị Ngọc Hà lại lóng lánh (có vẻ như nó hợp với thơ hơn). Tôi thấy tác giả chuyển được cái nhịp “thổn thức” ở trong thơ sang đến văn xuôi: “Đêm ấy bầu trời trong veo không một gợn mây. Gió từ sông Cái trườn qua cánh đồng Đình đổ rạp trên thảm lúa mùa đang thì con gái. Gió lay lay đôi vạt áo của Xoan. Những cánh hoa li ti trên áo như lung linh hơn trong ánh trăng, như nhún nhảy theo nhịp từng bước chân cô” (Ông Lễ). Cái nhịp điệu trong văn Nguyễn Thị Ngọc Hà, tôi nghĩ, hợp với người sống chậm. Là vì cần trải nghiệm mới thẩm thấu hết được các cung bậc tình cảm đủ cả tham, sân, si, ái, ố, hỉ, nộ. Và nữa, chủ âm của thơ văn Nguyễn Thị Ngọc Hà là buồn, nhiều “khúc trầm” (nhan đề một bài thơ).
Đúng là càng sống, càng ngẫm ngợi, càng thấy “sự đời nước mắt soi gương”. Nói thế không có nghĩa là chỉ có yếm thế, chỉ có những khúc trầm, chỉ có Từ ngày thành thiếu phụ/ tôi đã dỗ nước mắt chảy chìm/ để phấn hương thả nổi/ dỗ tiếng khóc núp sau tiếng cười/ để sống (Nước mắt đàn ông). Vẫn có nhiều niềm vui đấy thôi. Nhưng vui trong âm thầm lặng lẽ, trong chia sẻ, trong tri âm tri kỉ với thiên nhiên, với người, với đời. Tôi hình dung không bao giờ Nguyễn Thị Ngọc Hà nói to giữa đám đông người, đã đành, nhưng khi chỉ có một mình vẫn cứ nói thầm.
Lần tao ngộ văn chương gần nhất, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hà say mê chia sẻ về những dự định sáng tác trong tương lai gần và xa. Người văn này tuổi trẻ đã lùi về phía sau mình sao vẫn còn như một khối “hỏa diệm sơn” luôn luôn chực phát tỏa? Tôi cứ váng vất như thế mỗi lần gặp Nguyễn Thị Ngọc Hà.
Theo Bùi Việt Thắng - VNQĐ
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh qua đời ở tuổi 89, một lần nữa dư âm “Chuyện ngõ nghèo” của ông được công chúng nhắc tới bằng sự ngưỡng mộ đầy trân trọng.
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, tác giả của những bộ tiểu thuyết được đông đảo bạn đọc yêu thích như “Hồ Quý Ly”, “Đội gạo lên chùa”, “Mẫu Thượng Ngàn” đã qua đời ở tuổi 89 tại nhà riêng.
Đoạn văn nằm trong đề thi thử THPT Quốc gia 2021 là một trong những lời khuyên được tác giả đưa ra trong "Muôn kiếp nhân sinh 2" giúp con người chuyển đổi tâm thức để có thể vượt qua được những biến động kinh hoàng đang diễn ra.
Lữ Mai là một trong những gương mặt thơ nữ thế hệ 8X được nhiều người biết.
Mới đây chị đã thử sức ở thể loại trường ca và ra mắt tập “Ngang qua bình minh”. Tác phẩm đã đạt hạng Ba giải thưởng Sáng tác về biên giới, biển đảo giai đoạn từ 1975 đến nay của Hội Nhà văn Việt Nam.
Không ồn ào, lại diễn ra trong giai đoạn xã hội bị ảnh hưởng dai dẳng của đại dịch Covid-19, cuộc thi vẫn chứng minh được sức hấp dẫn riêng với hàng nghìn tác phẩm tham dự.
Đã có nhiều văn nghệ sĩ hưởng ứng công tác phòng, chống dịch Covid-19 bằng các tác phẩm nhạc, họa, thơ, văn. Trong năm 2020, một số hội nghề nghiệp, đơn vị xuất bản đã có các tập “nhạc, thơ chống dịch”. Các tác phẩm được đăng tải, phát sóng, góp phần cổ vũ các lực lượng và người dân trên các mặt trận tiến công Covid-19. Nhưng một hội văn học nghệ thuật (VHNT) thực hiện một tập sách riêng về chủ đề vượt qua dịch bệnh thì có lẽ ở Tiền Giang là trường hợp đầu tiên.
“Miền thánh đợi”, là tuyển chọn 40 truyện ngắn của Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Văn học cho ra mắt.
Muôn kiếp nhân sinh 2 tiếp tục cuộc du hành thời gian vô tiền khoáng hậu với những câu chuyện tiền kiếp, nhân quả luân hồi đầy hấp dẫn kỳ lạ từng làm say mê hàng trăm nghìn bạn đọc Việt Nam của doanh nhân New York giàu có, thông tuệ Thomas, cùng với những khám phá các tầng cõi linh hồn và những kiến giải, hướng đi mới giữa chu kỳ hoại diệt của nhân loại và hành tinh này.
“Nghiệp rừng” (NXB Văn học, 2021) là tập truyện ngắn gồm 16 tác phẩm của tác giả người dân tộc Dao Triệu Hoàng Giang.
Ngày 6-5, tại Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam phát động cuộc thi Tác giả Trẻ nhằm tìm kiếm những cây bút trẻ - lực lượng sẽ kế tục sự nghiệp và tạo ra chân dung văn học Việt Nam mới.
Đã có nhiều những ý kiến trên các diễn đàn văn nghệ về các chính sách, cơ chế đối với văn học, tập trung vào đối tượng những người sáng tác; các nhà tổ chức xuất bản, phát hành sách; các cơ quan quản lý nhà nước về văn học nghệ thuật và các hội nghề nghiệp...
PGS, TS Nguyễn Văn Dân từng có nhiều công trình nghiên cứu đạt giải thưởng cao của Hội Nhà văn Việt Nam, giải sách hay, giải thưởng Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật (VHNT) Việt Nam…
Nhiều hiện tượng văn học miền Nam trước 1975 thực ra đã đến với độc giả miền Bắc từ rất sớm, bằng những cách thức và con đường khác nhau...
Nhà biên kịch Trịnh Thanh Nhã là người bạn đồng môn, người đồng nghiệp gắn bó với nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm nhiều năm nay. Nghe tin ông ra đi một ngày cuối tháng Tư, bà xúc động khi nhớ lại những kỷ niệm cũ...
Hội Nhà văn TPHCM vừa kết hợp với Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Tây Ninh tổ chức tọa đàm “Nhà văn sống và viết về chiến tranh cách mạng”, mang đến những trăn trở, suy tư cũng như hy vọng của những người cầm bút qua một đề tài không bao giờ cũ.
Hai mươi năm sống và làm việc tại Hà Nội, với tư cách là một nhà văn, Đỗ Bích Thúy đã xuất bản 21 cuốn sách gồm các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn, truyện thiếu nhi. Qua đây bạn đọc có thể hình dung được những lao động nghệ thuật đầy say mê, nghiêm túc và chuyên nghiệp của chị.
Đà Lạt là một miền viết dường như không vơi cạn với Nguyễn Vĩnh Nguyên. Điều đó thể hiện rõ rệt qua hàng loạt cuốn tản văn, du khảo, biên khảo Đà Lạt khá đặc sắc mà nhà văn này đã viết trong suốt gần chục năm qua: “Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách”, “Đà Lạt, một thời hương xa”, “Đà Lạt, bên dưới sương mù”, “Đà Lạt, những cuộc gặp gỡ”...
Mặc dù đã ra mắt bạn đọc từ 10 năm trước, nhưng trong buổi ký tặng sách Đảo mộng mơ được tổ chức vào sáng 8-4 tại Nhà sách Cá Chép (223 Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1), vẫn có rất đông độc giả đủ mọi thành phần lứa tuổi cùng tham gia giao lưu và xin chữ ký từ nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.
Ngày 8-4, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh sẽ có buổi giao lưu cùng bạn đọc nhân kỷ niệm 10 năm xuất bản lần đầu tác phẩm “Đảo mộng mơ”.
Tính ra tôi quen biết, chơi với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã gần 40 năm. Bốn chục năm bao nhiêu kỷ niệm, buồn vui đủ cả. Ngày anh trọng bệnh lần đầu, tôi cũng nằm viện vì tai nạn xe máy. Tới khi anh đột quỵ lần 2, tôi cũng vừa qua hạn nối được 3 ngón tay đứt lìa. Gọi cho nhau qua máy điện thoại, nghe giọng anh vừa lắp vừa chậm, thở than: Tôi là đồ tàn phế, bỏ đi rồi.