Giới thuyết về thơ mới (1930 - 1945)

15:00 14/05/2009
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

Từ trái sang phải: Xuân Diệu, Thế Lữ, Nhất Linh, Khái Hưng thời Tự lực văn đoàn (Ảnh: TL)

Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

Thơ mới là gì? Chính Phan Khôi, người đề xướng ra nó, cũng chưa biết gọi tên là gì, chỉ giới thiệu sơ lược trên Phụ nữ Tân văn số 122, 1932, như sau: "...Tôi sắp toan bày ra một lối Thơ mới. Vì nó chưa thành thục nên chưa có thể đặt tên là lối gì được, song có thể cứ cái đại ý của lối Thơ mới này ra, là: đem ý có thật trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu, có vận mà không phải bó buộc bởi niêm luật gì hết". Một năm sau, cũng trên Phụ nữ Tân văn (số 211), Nguyễn Thị Kiêm, một trong những nhà diễn thuyết đầu tiên ủng hộ phong trào Thơ mới cho rằng: Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà đẹt mất thì cần một lối thơ khác, do lề lối nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác lối xưa nên gọi là Thơ mới.

Theo ý hai tác giả trên thì Thơ mới là thơ tự do. Mười năm sau, khi Thơ mới tương đối ổn định, chính lúc đó Hoài Thanh. Hoài Chân tổng kết phong trào lại cho rằng: "Không thể hiểu theo cách định nghĩa của ông Phan Khôi. Thơ tự do chỉ là một phần nhỏ trong Thơ mới. Phong trào Thơ mới trước hết là một cuộc thí nghiệm táo bạo để định lại giá trị những khuôn phép xưa".

Trong cuộc thí nghiệm ấy "phong trào Thơ mới vứt đi nhiều khuôn phép xưa, song cũng nhiều khuôn phép nhân đó sẽ thêm bền vững... trong các khuôn phép mới xuất hiện đều bị tiêu trầm như thơ tự do, thơ mười chữ, thơ mười hai chữ, hay sắp sửa tiêu trầm như những cách gieo vần phỏng theo thơ Pháp".

Các tác giả "Thi nhân Việt Nam" cũng đưa ra kết quả của cuộc thí nghiệm đó trên các thể thơ truyền thống được vận dụng sáng tạo bởi các nhà Thơ mới để chứng minh cho phần nhận định của mình.

Sau này (1971), Hà Minh Đức thống kê 168 bài thơ của 45 nhà Thơ mới được Hoài Thanh, Hoài Chân tuyển vào tập Thi nhân Việt Nam và đi đến kết luận: "Nhìn chung các thể thơ 7 từ, 8 từ, lục bát và năm từ là những thể thơ được phổ biến nhất trong phong trào Thơ mới.

Kết luận của Hà Minh Đức về các thể thơ phổ biến của phong trào Thơ mới cho ta thấy nhận xét ban đầu của Hoài Thanh, Hoài Chân có giá trị và xác đáng.

Đi tìm thực chất của khái niệm về Thơ mới, các tác giả "Thi nhân Việt Nam" dừng lại ở chữ "tôi" và cho rằng đó là điều quan trọng - tinh thần của Thơ mới. Theo các ông "tinh thần thời xưa - hay thơ cũ" nằm trong "chữ ta", "tinh thần thời nay - hay Thơ mới" nằm trong "chữ tôi", "tức là ở nguồn cảm hứng của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa lãng mạn đã trở thành linh hồn của Thơ mới thời bấy giơ". Các ông cũng thấy tinh thần của thơ ấy buồn xôn xao, vì "thiếu một lòng tin đầy đủ". Quan niệm về Thơ mới như vậy là đúng đắn và có chừng mực, tiếp cận được thực chất của vấn đề. Các nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm cũng không đi xa ngoài ý kiến của Hoài Thanh, Hoài Chân.

Bên cạnh quan niệm về Thơ mới bằng cách đối sánh với "thơ cũ"' đã nêu ở trên, một quan niệm về Thơ mới đối sánh với "Thơ cách mạng” cũng đáng chú ý. Chẳng hạn: "Thơ mới ở đây là phong trào thơ ca lãng mạn1932 - 1945 mang ý thức hệ tư sản và quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật" (Phan Cự Đệ 1997:22). "Phong trào Thơ mới cũng như khuynh hướng lãng mạn nói chung là biểu hiện của cá nhân tư sản" (nhóm Lê Quý Đôn 1957:290). "Thơ mới trong thời kỳ này có nghĩa không bằng lòng với cuộc sống trước mắt, nhưng nó hướng người đọc vào những con đường bế tắc" (Viện Văn học, 1964:79).

Một quan niệm như vậy rõ ràng đã đánh giá thấp, phê phán nặng về nội dung tư tưởng và tác dụng của Thơ mới, dù có vạch ra một ranh giới giữa Thơ mới với thơ cách mạng và kháng chiến trước và sau 1945.

Bước vào thời kỳ đổi mới, khái niệm Thơ mới được nhiều nhà nghiên cứu đối sánh với thơ hiện đại. Huy Cận (1933: 10 - 11) cho rằng: "Thơ mới đã tạo ra cảm xúc thi ca chung cho cả thời đại, và những bài thơ đương thời có giá trị đều được sáng tác với luồng cảm xúc mới ấy cho dù các đề tài mà các tác giả lựa chọn có thể rất khác nhau... Thơ mới đã tiếp tục sống, tiếp tục phát triển, nở nhiều hoa, kết nhiều trái qua các giai đoạn phát triển của thơ ca dân tộc". Phan Cự Đệ (1997:22) cho rằng: "Phong trào Thơ mới là một hiện tượng lớn nhất trong nửa đầu thế kỷ, nó đã đưa thơ ca Việt Nam vào thời kỳ hiện đại, góp phần tạo nguồn và còn ảnh hưởng đến thi ca hôm nay".

Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao Thơ mới, gần như muốn đánh đồng Thơ mới với Thơ Việt Nam hiện đại.

Nhiều ý kiến muốn xác định phạm vi thời gian và không gian cụ thể của nó. Phổ biến nhất hiện nay là ý kiến cho rằng khởi điểm của Thơ mới là 1932 và kết thúc 1945. Ý kiến này căn cứ vào những hiện tượng văn học ra đời năm 1932, trong đó có Tự lực văn đoàn và bài thơ Tình già của Phan Khôi, và sự kiện Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945.. Cách xác định như vậy có sự thiếu nhất quán: mốc đầu thì lấy mốc văn học còn mốc cuối thì lấy mốc lịch sử. Tại sao lại thay đổi sự phân định trước đây về giai đoạn văn học 1930 - 1945 trong đó có Thơ mới?

Và gần đây có ý kiến cho rằng toàn bộ thơ hiện đại kể cả thơ hôm nay về cơ bản là sư lặp lại và nối tiếp Thơ mới. Một quan niệm như vậy đề cao quá mức và gán cho Thơ mới những giá trị mà vai trò lịch sử cụ thể của nó không thể có được. Đồng thời, ý kiến này vô tình hay hữu ý phủ nhận giá trị và vai trò lịch sử của thơ sau 1945, một nền thơ đã có sự đổi mới về thi hứng lẫn thi pháp.

Chúng tôi cho rằng nên quan niệm Thơ mới là một hiện tượng văn chương có tính lịch sử, là một phong trào văn chương, một cuộc vận động đổi mới về văn chương có phần lý thuyết và thực hành, có người khởi xướng về quan niệm và có nhà thơ sáng tác đi đến khẳng định thành tựu với những tác phẩm có giá trị trong một giai đoạn lịch sử văn học nhất định. Đó là giai đoạn văn học 1930 - 1945.

Có thể nói, Thơ mới được đóng khung trong giai đoạn 1930 - 1945. Trước đó đã có mầm mống bắt đầu của Thơ mới. Đó là năm 1928, Nguyễn Văn Vĩnh với bài thơ dịch "Con ve và con kiến" (La Cigale et la Fourmi) lần đầu tiên xuất hiện trên Trung Bắc Tân Văn. Bài thơ không niêm, không luật, không hạn chữ, hạn câu cho độc giả thấy khuôn khổ bài "thơ cũ" bắt đầu rạn nứt, báo hiệu mầm mống Thơ mới sau này. Còn về cảm hứng thì như Hoài Thanh, Hoài Chân (1941) nhận xét: "Trong đôi bài thơ của Tản Đà mới thấy phảng phất chút bâng khuâng, chút phóng túng của thời sau". Ngoài ra, Tiên sinh "vẫn ca đi hát lại bấy nhiêu đề thơ bằng bấy nhiêu dòng thơ không di không dịch".

Bước vào thập niên 30, công cuộc khai thác thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc ở Việt Nam đã đẩy đến đỉnh cao của hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa thực dân, chế độ thuộc địa đã hình thành rõ nét, các tầng lớp tiểu tư sản, tư sản thành thị đã phát triển đông đảo, cùng với sự phát triển đô thị và sự mở rộng quy mô của bộ máy thực dân. Một thế hệ thanh niên trí thức được đào tạo từ nhà trường Pháp - Việt đã có một cái vốn Pháp ngữ khá dồi dào, họ am hiểu văn hoá phương Tây, đặc biệt là văn chương lãng mạn Pháp. Họ cảm thấy bừng tỉnh về ý thức cá nhân, yêu cầu giải phóng cá nhân khỏi khuôn khổ ý thức, lễ giáo phong kiến. Nếu văn chương lãng mạn Pháp giúp họ phát hiện cái tôi cá nhân chủ nghĩa với ý nghĩa tuyệt đối thì trong hoàn cảnh Việt Nam những năm đầu 30, văn chương lãng mạn Việt Nam giúp họ thể hiện nó.

Năm 1930 cuộc khởi nghĩa Yên Bái nổ ra và bị đàn áp đẫm máu, đồng thời Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời mở ra giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc do giai cấp vô sản lãnh đạo là hai sự kiện lớn, đánh dấu phong trào yêu nước ở đỉnh cao và yêu cầu giải phóng dân tộc đặt ra rất cấp bách, đánh thức ý thức dân tộc, quốc gia trong mỗi con người Việt Nam.

Cũng đầu những năm 30, cuộc khủng bố trắng của thực dân với quy mô dã man chưa từng thấy, thêm vào đó, cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra sâu sắc trong thế giới tư bản mà Việt Nam là một thuộc địa phải chịu chung một số phận, đã tạo ra sự hoang mang thất vọng trong thanh niên. Họ muốn thoát ly thực tế đen tối, xa lánh chính trị mà họ cảm thấy "ồn ào mà vô hiệu" bằng cách tìm đến con đường văn chương lãng mạn, với mục đích như Lưu Trọng Lư viết trong Người sơn nhân: "Người thanh niên Việt Nam ngày nay chỉ ao ước có một điều, một điều mà tha thiết hơn trăm nghìn điều khác là được một nhà thi nhân hiểu mình và an ủi mình, một bậc thiên tài lỗi lạc đi vào tâm hồn của mình đến những chỗ cùng sâu, mà vạch những cái kín nhiệm uất ức, rồi đưa phổ vào những âm điệu du dương cho mình được nhẹ nhàng thư thả..."

Theo chúng tôi, không nên xem Thơ mới chỉ là hiện tượng thơ ca đơn thuần riêng lẻ, mà phải gắn bó với nguồn gốc xã hội lịch sử cụ thể của nó. Từ năm 1930, nhiều sự kiện lịch sử, chính trị, văn hoá, tư tưởng với yêu cầu cấp bách có tính chất kịch liệt ảnh hưởng đến xã hội, tác động đến văn học, tạo sự chuyển biến hiện đại hoá về mặt xã hội cũng như văn chương. Do vậy, chúng tôi chọn mốc 1930 làm khởi diểm phong trào Thơ mới, và kết thúc năm 1945, khi cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, xoá bỏ ách nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm trên đất nước ta, đem lại độc lập tự do cho dân tộc, đưa đất nước sang một kỷ nguyên mới, làm thay đổi toàn bộ xã hội về mọi mặt, trong đó có văn học. Thế là năm 1945 đã mở ra một giai đoạn văn học mới và tất nhiên là phải khép lại giai đoạn được mở ra từ 1930.

Phải lưu ý rằng trong giai đoạn 1930 - 1945 cũng có những nhà thơ không thuộc Thơ mới. Chẳng hạn như Tản Đà, Á Nam, Ưng Bình... đã sáng tác thơ từ những năm 20, sau năm 1930 cũng tiếp tục làm thơ, vẫn tiếp tục mạch thơ cũ. Còn Tú Mỡ cùng Đỗ Phồn và nhiều nhà thơ trào phúng khác trong giai đoạn này không thể xếp vào phạm trù Thơ mới. Chính Hoài Thanh và Hoài Chân cũng không tuyển thơ của Tú Mỡ trong "Thi nhân Việt Nam". Quả thật, thơ Tú Mỡ mang hình thức truyền thống với nội dung đả kích, trào phúng. Riêng Tố Hữu là trường hợp đặc biệt, làm thơ từ những năm 1937 khi phong trào Thơ mới phát triển ở đỉnh cao. Tác giả ý thức rằng khuôn phép thơ cũ gò bó, khó mà nói hết được nhịp sống mới mẻ của thời đại, nếu như không có một hình thức khác phóng khoáng hơn - hình thức Thơ mới. Từ ấy được sáng tác với ý thức như vậy. Cho nên Xuân Diệu mới cho rằng thơ Tố Hữu trước 1945 thoát thai từ phong trào Thơ mới. Nhưng thơ Tố Hữu khác Thơ mới ở chỗ: thi hứng hoàn toàn khác và mới, một thi hứng của tình cảm, tư tưởng cách mạng được biểu hiện dưới hình thức Thơ mới. Hay nói như Trần Đình Sử (1994): "Trên quỹ đạo của hình thức Thơ mới đương thời, Tố hữu đã phát hiện lại cái tôi nhiệt huyết cảm tính, đem cái tôi cá nhân gắn với cái ta đoàn thể quần chúng, tạo ra những vần thơ bay bổng và sức mạnh".

Như vậy, không phải trong những năm 1930 - 1945 mọi sáng tác thơ đều là Thơ mới, mà có nhiều dòng thơ cùng tồn tại. Thơ mới ra đời và nhanh chóng chiếm được ưu thế trên văn đàn, thơ cũ cũng vì thế mà từ từ rút lui vào hậu trường. Bên cạnh đó còn có một dòng thơ sôi sục đấu tranh của các chiến sĩ cộng sản, dòng thơ cách mạng, tiêu biểu là Từ ấy của Tố Hữu. Và một dòng nữa - dòng thơ trào phúng với Tú Mỡ... Tất cả các dòng trên sau Cách mạng tháng Tám, hợp lưu và chuyển biến thành dòng thơ cách mạng và kháng chiến sau năm 1945.

Cách mạng tháng Tám thắng lợi, hầu hết các nhà Thơ mới đều đi theo cách mạng, họ tự nguỵện hoà cái tôi của mình vào cái ta cộng đồng, cái ta dân tộc. Họ đã lột xác trở thành các nhà thơ của quần chúng cách mạng, Tiếng thơ của họ không còn quanh quẩn trong vòng cái "tôi" tự biểu hiện mà thay vào đó là nhằm biểu hiện đời sống cách mạng, kháng chiến sôi động, hào hùng của nhân dân, của dân tộc. Rồi những nhà thơ trường thành trong kháng chiến như Chính Hữu, Trần Mai Ninh, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung, Bảo Định Giang, Xuân Miễn, Nguyễn Viết Lãm, Lưu Trùng Dương, Lương An.v..v.. không phải là những Thơ mới. Thơ họ khác Thơ mới, khi mà ý thức hệ thay đổi, cảm hứng về nhân dân, về cách mạng đầy ắp, dồn nén trong thơ họ. Có thể nói thơ họ là cuộc chia tay của thơ kháng chiến với thơ tiền chiến (tức là Thơ mới). Về thi pháp, cùng nằm trong phạm trù hiện đại nên ta có thể thấy những câu thơ, thể thơ "hao hao", "na ná" như Thơ mới. Nhưng thật ra sau Cách mạng thơ đã thay đổi nhiều, khi tâm hồn của quần chúng kháng chiến dâng lên như nước vỡ bờ, thơ ca - nhịp đập của trái tim - đã đi tìm hình thức mới để biểu hiện. Chẳng hạn: thể thơ tự do ra đời từ "Thơ mới", ít phổ biến (81/654) bài, nay đã phát huy chiếm tỷ lệ gấp 1/2 (theo thống kê của Văn Tâm, tập thơ kháng chiến 1945 - 1975 (văn học - 1985) có 98/213 bài). Thể thơ tám chữ là một cách tân lớn được sử dụng phổ biến nhất ở Thơ mới (194/654 bài) (thống kê của chúng tôi) nay ít được chú ý. Hiện tượng vắt dòng, tiếp thu ở thơ Pháp, rất thịnh ở Thơ mới nay cũng ít thấy.

Do vậy khi bàn về Thơ mới 1930 - 1945 và thơ hôm nay, trên tinh thần khách quan, khoa học với một quan điểm lịch sử đúng đắn, giáo sư Trần Thanh Đạm (1994) viết: "Từ sau Cách mạng Tháng Tám quả đã bắt đầu một nền thơ ăn thua với cuộc đời chung, góp phần vào sự nghiệp chung của dân tộc. Về cơ bản, tinh thần Thơ mới đã chấm dứt với Cách mạng tháng Tám, để khởi đầu một cuộc cách tân mới của thơ với nguồn thi hứng mới kéo theo một hệ thi pháp mới, với những thành tựu mới, tiến xa hơn cao hơn thời Thơ mới".

Phải nói rằng, Thơ mới là một hiện tượng văn học có giá trị đầu thế kỷ XX. Nó có một phạm vi lịch sử cụ thể, từ 1930- 1945, trước nó chỉ có mầm mống, đồng thời với nó, có nhiều trào lưu thơ không phải thuộc Thơ mới và sau 1945 càng không phải là Thơ mới. Trong phạm vi lịch sử đó, Thơ mới có sự đổi mới đồng bộ nghệ thuật thơ: thi hứng hiện đại, thi pháp hiện đại, tạo thành tựu xuất sắc trong thơ Việt Nam hiện đại, để lại dấu ấn sâu sắc, rõ rệt trong thơ nhưng không tránh khỏi hạn chế. Sự đổi mới ấy có gốc rễ rất sâu vào truyền thống. Do vậy, Thơ mới có một bộ mặt riêng, một vị thế riêng, là một bộ phận chứ không phải là Thơ ca hiện đại nói chung, cần được đánh giá xứng đáng.

B.Q.T   

(171/05-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H