Giới thiệu Chi hội nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế - Nhà văn Vĩnh Nguyên

09:14 09/07/2009
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

Nhà văn Vĩnh Nguyên (Ảnh: LVT)

 

Hai mươi tuổi, Vĩnh Nguyên nhập ngũ trở thành một chàng lính thủy đẹp trai và lãng mạn. Anh đã từng theo tàu chiến Hải quân đi tiếp tế cho bộ đội ở các đảo Cồn Cỏ, Bái Tử Long, Bạch Long Vĩ... Anh từng có mặt trên chiến hạm 171, tham gia trận đánh đầu tiên vào ngày 5 - 8 - 1965 ở sông Gianh... Thời đang còn là học sinh trường Đào Duy Từ (Đồng Hới), Vĩnh Nguyên đã say mê đọc sách. Anh ấp ủ, mơ ước một ngày nào đó sẽ trở thành nhà văn. Vì thế cho nên khi xuất ngũ, Vĩnh Nguyên làm đơn xin về Hội Văn nghệ Quảng Bình rồi được chọn đi học trường viết văn Nguyễn Du (khóa 7). Từ năm 1983 đến năm 1992 anh làm phóng viên, biên tập viên ở Tạp chí Sông Hương, sau đó chuyển qua công tác ở Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế đến khi nghỉ hưu. Cho đến nay, sau hơn ba mươi năm cầm bút anh đã xuất bản 4 tập văn xuôi, 1 tập trường ca, 6 tập thơ. Anh cũng đã được tặng giải thưởng văn học Cố đô (1990 - 1994), giải thưởng bút ký tuần báo Văn nghệ (1984).

Vĩnh Nguyên là một trong những cây bút viết bút ký hết sức năng động. Bút ký của Vĩnh Nguyên hơi dông dài, ít chất thơ nhưng bề bộn chất hiện thực. Điều đó được thể hiện khá rõ trong những thiên bút ký Vua trầm, Theo thuyền đánh cá mập, Ngày Valentine tôi dông xe ra Bắc...

Theo Vĩnh Nguyên, làm thơ còn khó hơn viết văn, “dù tư duy đến mấy, không có ẩn ức không viết được”. Đọc hàng trăm bài thơ của anh in trong các tập Mây đá nhớ nhau, Bài hát dòng suối mướp, Nết.... tôi thấy những bài anh viết do những ẩn ức nào đó đều có những câu, những đoạn khá hay. Ngồi trên bãi biển Nha Trang, nếu không ẩn ức bởi việc “em quay gót, rượu không buồn rót”, chắc gì anh viết được những câu thơ mà bạn bè thường nhắc nhở trong các cuộc vui: Tôi vùi chai rượu xuống lòng đêm/ Tạm biệt Nha Trang với câu thề trên cát ướt/ Hẹn ngày gặp lại bới chai lên!

Đọc Vĩnh Nguyên, nhiều người nhận xét cả thơ lẫn văn của anh có phần “thô ráp, gồ ghề” (chữ dùng của nhà thơ Hoàng Vũ Thuật). Anh có lối viết “thẳng như ruột ngựa” không màu mè, hoa mỹ. Nhưng chính nhờ cái thô ráp, cái gồ ghề, “thẳng như ruột ngựa” ấy mà góp phần làm nên nét riêng của anh.
M.V.H


VĨNH NGUYÊN

Bài hát của con dế

Anh hát mãi về em
Ty ly tím nhỏ nơi bờ cỏ
Bông hoa kín đáo anh gặp lần đầu
Anh hát mãi về em anh hát mãi
Anh là con dế dại khờ lũ nhỏ bắt bỏ bao diêm

Anh hát mãi về em
Ty ly tím nhỏ lẫn khuất nơi bờ cỏ
Dòng sông bên trời
Dòng sông mang những bông hoa úa tàn qua mùa xuân bất tuyệt
Anh hát mãi về em, anh hát mãi
Anh là con dế dại khờ lũ nhỏ bắt bỏ bao diêm

Anh hát mãi về em
Ty ly tím nhỏ
Nơi hang đất anh đào có gọng me chua, có rễ cỏ ngái
Anh hát mãi về em sáng trưa chiều tối, sau buổi việc nhọc nhằn
Anh là con dế dại khờ lũ nhỏ bắt bỏ bao diêm
Anh hát mãi về em anh hát mãi
Anh hát mãi về em, ty ly, anh hát mãi
Cho đến khi xác khô lẩn khuất, nơi bờ cỏ em.


Đã đến lúc

Đã đến lúc tôi đi buôn cỏ may    
Với những người sống rỗng trong không gian rỗng
Họ ưa xoang cỏ may vào ống quần để nhổ và nhổ

Đã đến lúc tôi đi buôn vực thẳm
Để ngăn những con tàu tránh xa chốn hiểm
Tốt hơn là buôn luôn những con tàu

Tôi dũng mãnh tôi đầy ma lực
Tôi vừa thuyền trưởng vừa lái tàu
Có thể tính phương vị toạ độ dòng hải lưu gió dạt
Nhưng không thể tính định vị sóng thần
Gẫy gấp cột buồm - Nơi cả gia đình chống đỡ

Tôi cùng con tàu tơi tả dạt bờ sú vẹt
Bờ bãi nào hứng dạt các con tôi
Là thuỷ thủ giỏi tôi tin chúng vẫn sống

Và đương nhiên tôi đi buôn con tàu khoẻ hơn
Tôi biết tính hướng sóng nơi xảy ra thảm hoạ
Tôi tìm bằng được các con yêu!

Các con trở về trên con tàu bình yên
Tôi vừa con tàu vừa người mẹ
Chẳng lẽ bằng không, tôi trở buôn cỏ may, vực thẳm
hay buôn ông bầu diễn tuồng - chẳng lẽ?

                       
Tháng 1 - 2006   

Không đề 3

Đời ta rồi thua cả loài cỏ dại
Thua cả đám liu chiu dế trũi, dế mèn
Là khi ta nằm dài đáy huyệt
Đám liu chiu cỏ dại mọc đè lên

Không ai tránh được giờ kết thúc
Đức Mẹ hiện ra đâu đó năm nào...
Người sùng đạo cứ tin là có thật
Còn người thường chỉ biết thương nhau

Anh và em trước sau gì cũng vậy
Lúc rễ cây hút tuỷ ống xương khô
Bao đốt xương ta rỗng như ống trúc
Ai còn hát theo chi vào những nấm mồ

Chỉ lạnh buốt những đốt rời lạnh buốt
Mạch nước ngầm năm tháng xói âm thầm
Rồi vụn nát trong lòng đất ướt
“Thân cát bụi sẽ thành...” người sùng đạo hãy còn tin!

Cuộc đời ta mới đi một nửa
Và nửa sau mới quý vô cùng
Chớ hờn dỗi vu vơ, chớ điên khùng gớm ghiếc
Cứ nói “em yêu anh” và ngược lại tốt hơn chăng?

Và bạn hỡi, chớ dong dài tham luận
Nó thừa ra khi ta hiểu nhau rồi
Và em nữa nói gì như cám rắc
Anh mịt mù giữa tăm tối - than ôi!

Đời ta rồi thua cả loài cỏ dại
Ta cứ tin như thế vững lòng hơn
Để bàn tay với bàn tay lại nắm
Và làn môi tìm tới nụ môi hôn.


(244/06-09)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.

  • NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.

  • LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)

  • LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)

  • NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.

  • LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.

  • KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.

  • NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.

  • HỒNG NHU    (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.

  • NGUYỄN HỮU QUÝ         (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.

  • LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.

  • MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.

  • SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.

  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!