NGUYỄN ĐÌNH MINH KHUÊ
Tạp bút
1
Những ngày này trời Phương Bối chắc cũng đã chuyển thu. Nhưng ngày thu, khí thu, vị thu, hoặc có chăng thì lòng người đã thu thôi, chứ sắc thu vàng rực cháy đỏ của những xứ ôn đới xa xôi làm sao lần mò được đến tận chốn này khi vây quanh Phương Bối là bạt ngàn thông gió.
Những đồi thông xanh rợp rủ bóng thầm thì, đạo mạo cái dáng vẻ ẩn sĩ giữa đại ngàn trầm mặc và thâm u. Thông xanh đến nỗi nhuộm màu rong rêu lên cả những con gió vẫn âm thầm len lỏi qua rừng đồi. Những con gió Phương Bối cô tịch, chì nặng, xa xăm như mang chứa bên trong cái dáng vẻ vô hình thanh thoát của mình cả kho ký ức về biết bao vùng hoài niệm mà nó từng đi qua trong đời phiêu bạt.
Gió kể cho những lữ khách của núi rừng câu chuyện về cái tên Phương Bối mà thiền sư Nhất Hạnh, không biết trong buổi tinh mơ thơm tho nào, đã nghe mùi hương của một loài cây cỏ mà xuất hứng gọi thành cái tên mỹ miều kia. “Phương Bối” có nghĩa là lá bối thơm, loại lá dùng để chép kinh sách từ thời cổ ở vùng Ấn Độ. Từ những chiếc lá kia, lời Phật chảy tràn ra khắp sông suối rừng đèo. Có chiếc ta bà du lãng cõi người, nhưng cũng có chiếc đã chịu nằm lại nơi một cảnh rừng, một dốc đèo, chao nghiêng tỏa lan cái thơm tho vô sắc.
Nhưng nói như thế thì chiếc bối thơm nào, những lời của ngàn năm nào đã chọn dừng chân nơi đây, nơi đồi Phương Bối đào nguyên này của thầy Nhất Hạnh?
2
Trong những giây phút nấn níu lại với rừng đèo, gió cũng kể cho người ta nghe về những tay chơi thơ giữa khinh khoái đại ngàn, những người thơ của một thời vàng son quá vãng đã ương ngạnh trước bao sóng gió cay đắng, quyết không chịu bay về phía bên kia đại dương mà chấp nhận lầm lũi giữa lưng chừng thông reo Phương Bối này, chỉ để được gần Mẹ đất da vàng máu đỏ. Người thơ ấy là Nguyễn Đức Sơn. Người thơ ấy hồn linh ướt nhèm vì dòng nước thánh tuôn ra từ người đàn bà mà ông mê đắm. Người thơ ấy bay giữa nắng thu vàng mà cạp lấy cùng dòi bọ một quả ổi rơi. Và người thơ ấy cũng lẩm nhẩm đọc một thoáng kinh cầu cho quê hương:
“Quê mình ai còn ai mất
Đi rồi gươm súng mùa thu
Khóc mãi từng đêm lưu lạc
Nói ra thêm oán thêm thù”
Ngày chúng tôi lên Phương Bối, gươm súng đã tan, chỉ còn những vạt mưa thu lất phất trên đầu. Song người thơ ấy, sau cơn lầm lụy điên đảo vẫn còn sân sẩn, khỏe mạnh lắm, vẫn chống gậy, khuôn miệng nhăn nheo móm mém, bước đến chùa Sim của cư sĩ Đức Vân con trai ông, với dáng vẻ của một lão tiên nơi tục lụy tuy đâu đó vẫn váng vất vẻ ngổng nghểnh, ngang tàng chưa đi mất bao giờ. Chúng tôi ăn với ông một bữa cơm chay, rồi tiễn ông về trên chiếc Cup trông vẻ cà tàng nhưng đã quen leo đèo dốc.
Đường về nhà Nguyễn Đức Sơn đi qua một trảng rừng thông, càng vào sâu cây càng ken đặc, âm ẩm sương mù. Lối đất đỏ mỏng mảnh vòng vèo giữa những bụi cây dại chưa kịp nở hoa, hình như càng ngày càng nhỏ lại, lẩn khuất hẳn vì có bao người còn đến đây đâu, có bao người còn nhớ được rằng hơn ba mươi năm trước, từng có một trong tam kỳ nhân của giới văn nghệ Sài Gòn đã về đây, bỏ lại sau lưng đoạn đời đánh mất và dành cả quãng đời còn lại của mình cho núi rừng, ăn chay, tụng niệm cho một thời quên nhớ …
Trước cửa nhà ông là một bộ bàn ghế đơn sơ, nằm gần sát bờ vực thấp. Ngồi từ chỗ ấy, vừa nhâm nhi tách chè xanh nóng, vừa có thể phóng tầm mắt ra gần cây số để ngắm những dải mây mù bay bay vào những buổi tinh mơ sương giáng hay những hoàng hôn chuyển lạnh trong vầng ráng rực rỡ nhuộm đỏ sắc trời. Ngồi từ chỗ ấy, Nguyễn Đức Sơn sẽ móm mém đọc cho nghe một bài thơ, sẽ phóng khoáng văng tục, phóng khoáng tư lự, phóng khoáng cười buồn. Ngồi từ chỗ ấy, sẽ thấy mấy mươi năm ngồi lại, âm thầm, kiêu bạc, chân vắt chữ ngũ uống với người một vần thơ.
Vậy mà chẳng ai đến ngồi, duy chỉ có rong rêu u tịch…
3
Trong những bước rong ruổi qua miền rừng đèo này, gió còn kể rằng, nó vẫn thấy thấp thoáng một cái am bé xinh nằm chìm trong những bụi sim tím ngắt. Sim Phương Bối cao gần ngang đầu người lớn, đã nở hoa suốt hơn chục mùa từ lúc được sư thầy Nguyễn Đức Vân lần đầu gieo cấy xuống những luống đất đèo cằn khô.
Tuy vậy, lúc chúng tôi lên đến chùa Sim, tiếc thay, màu sim tím chỉ còn lác đác điểm tô cho mùa thu Phương Bối bởi loài hoa của rừng này đã lần lượt bung nở hết từ những tháng hè. Nhưng trong cái rủi có cái may. Chẳng biết thế nào, vừa nghe chúng tôi có ý tiếc rẻ, thầy Đức Vân lật đật chạy ra dốc vườn sau chùa rồi thủng thỉnh đi vô, trên tay cầm một nắm lá chè xanh tươi rói như an ủi.
Chiều Phương Bối rơi nhanh vào cái đen kịt lành lạnh của đêm thu. Từ cái bếp đun nước sôi của thầy Vân, mấy sợi khói lãng đãng bay lên với cuồn cuộn những nỗi niềm, rồi chẳng biết tự lúc nào đã tan loãng hòa điệu vào cái thinh lặng muôn trùng của đồi thiền Phương Bối.
Chúng tôi ngồi quây quần lại bên thầy, bên những bát nước chè xanh, bên những câu thơ hào sảng lồng lộng như hơi thở. Trong giờ khắc chơi vơi giữa đêm sương thu ấy, hình như mọi mệt nhoài sau chuyến đi hơn ba trăm cây số của chúng tôi thoảng đi đâu đó rất nhanh. Chỉ còn lại đâu đây chút lãng đãng mơ hồ, chút bồng bềnh trong vắt. Chúng tôi bỗng chốc hóa thành mấy ngọn sương mù, những cuộn mây giăng giăng hay một cánh chim đi lạc nào ngoài kia đang chở trên đôi cánh chao nghiêng cả đêm thu Phương Bối…
4
Cũng chẳng biết cái đồi thông sừng sững giữa cao nguyên Bảo Lộc kia có thứ gì hấp dẫn mà bao nhiêu cuộc đời tài hoa lại rong ruổi về đây, lại chịu nắng dầm sương, lại trồng sim thưởng trà giữa thinh không này, từ thầy Nhất Hạnh, Thích Thanh Từ đến Nguyễn Đức Sơn, rồi giờ đây là Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Đức Yên nữa.
Đức Yên là con thứ của Nguyễn Đức Sơn, em của cư sĩ Đức Vân. Hai anh em không lấy vợ, sống đời thiền hành. Nhưng khác với anh, Đức Yên ở lại với cha trong căn nhà gỗ giữa rừng thông bên bờ vực cạn, chăm sóc nấu nướng cho cha, dẫn cha đi chơi.
Hình như trong mấy phút rảnh rỗi, Yên vẫn hay làm thơ. Anh từng đọc cho chúng tôi nghe một câu thật hay rằng “Nếu có luân hồi ta cưới em”.
Vâng, nếu có luân hồi thật, kiếp sau chúng tôi cũng nguyện làm những cơn gió tịch liêu để ngày ngày vẫn thổi qua đồi sim Phương Bối này, dâng lên những con người tài hoa này một lời chào tiếc nhớ…
Để nhớ một mùa Phương Bối, tháng 8/2017
N.Đ.M.K
(SHSDB26/09-2017)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.
BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.
PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.
XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.
NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.
TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.
NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!
Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.
NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com
VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.
TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.
TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.
TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…
MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.
NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.
HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.
NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.
LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...