Câu chuyện lịch sử
Vì sự bền chắc của nó, giấy còn được chế tác làm giấy sắc phong cho các triều đình nhà nước phong kiến. Hà Nội có dòng họ Lại ở làng Nghĩa Đô nổi danh về nghề làm giấy Long Đằng này (long đằng, có nghĩa là rồng đang bay : đằng vân - giá vũ). Giấy dó thủ công có độ bền trăm năm ngàn năm. Những sắc phong đình làng của các triều vua cách đây dăm bảy trăm năm còn đến ngày nay mở ra vẫn như mới. Đó là minh chứng rõ nhất. Người làng Đông Hồ từ lâu đã biết làm ra giấy dó điệp để in tranh. Điệp là vỏ những con điệp, một loài nhuyễn thể ở vùng nước lợ đã chết đọng thành vỉa. Người ta khai thác đem về cho vào cối giã rồi lọc phơi, nắm lại thành từng nắm to bằng vốc tay. Điệp giã nhỏ được thái vào nồi hồ loãng, quấy đều. Dùng chổi làm bằng gỗ thông nhúng vào quét lên mặt dó, sau đấy áp tờ giấy lên bờ tường phơi nắng cho khô rồi bóc ra. Thế là ta đã có tờ giấy dó điệp.
Theo họa sĩ Nguyễn Đức Hòa, họa sĩ và cũng là nhà nghiên cứu mĩ thuật, thì anh khẳng định, dó điệp là sản phẩm thuần Việt, dùng để in tranh khắc Đông Hồ.
Trước đây họa sĩ chỉ dùng giấy dó để ghi chép. Độ thấm nước của giấy điềm đạm hơn giấy Xuyên( xuyến chỉ) của Trung Quốc. Người ta không coi nó là chất liệu của hội họa. Sau này dó được các họa sĩ dùng để vẽ tranh thấy hiệu quả không hề thua kém các chất liệu khác mà độ bền của dó tưởng là mỏng manh lại bất chấp thời gian, bền hơn cả sơn dầu và sơn mài, nếu biết cách giữ cho khô ráo vì nó không phải giấy công nghiệp, không có độ kiềm, không tự hủy.
Tranh giấy dó để càng lâu, màu càng thắm. Những hạt màu siêu nhỏ đọng trên mặt giấy lâu ngày thẩm thấu sang nhau tạo nên những màu kì ảo mà tay người nhiều khi không làm được, gọi là tranh “lên men”. Những tranh Đông Hồ để lâu ba bốn mươi năm nay cho thấy rõ điều đó.
Thuở theo học tại trường Yết Kiêu, khi xem bức ký họa mực nho của thày Nguyễn Trọng Hợp vẽ một góc chùa Bút Tháp, tôi thấy đẹp lạ lùng, và từ đấy lặng lẽ đi vào chất liệu này. Đến nay đã ngoài hai mấy năm tôi đi với giấy dó và thể nghiệm đủ thứ về dó, và nhận ra những hiệu quả bất ngờ từ dó. Không dám nói là đã đạt được được gì lớn lao, nhưng đã có những tranh đẹp trên dó.
Đã có thời giấy dó lên ngôi, tranh giấy dó được người nước ngoài sưu tập tạo nên trào lưu “tranh dó”. Khi đã nhà nhà vẽ dó, người người vẽ dó thì hậu quả thế nào mọi người đã biết. Thói adua và tâm lí bầy đàn ( cả người mua lẫn người vẽ) cộng với thói hám lợi mì ăn liền của kinh tế thị trường đã làm hỏng dần đi chất lượng tranh trước mắt người sưu tập. Cuối cùng giấy dó lại trở về sống âm thầm cùng chất liệu lụa vang bóng một thời.
Thầm thĩ như tiếng đàn bầu, duyên sâu và nặng, dó là vậy. Rõ ràng giấy dó là tấm giấy thông hành của cha ông mình cấp cho để ta có thể ngồi chung chiếu với mĩ thuật thời hội nhập cùng các quốc gia trên thế giới. Nhưng chính chúng ta vẫn coi thường chất liệu có giá trị này.
Nhưng cũng cần nói thêm giấy dó bây giờ hàm lượng sợi dó nguyên chất ít, dó bị pha thêm bột giấy nên giấy không dai, dễ mủn nát khi gặp nước. Dó nguyên chất, mặt dó mịn như lụa, màu sữa ngà, xé được tờ dó cũng không dễ. Tờ dó kép 7 mà người ta có thể dễ dàng bóc được ra từng lớp mà không bị xước rách. Dó bán trên thị trường hiện không được chất lượng như vậy.
Cách dùng giấy dó
Giấy dó để càng lâu vẽ càng hay. Thời tiết của ta nóng ẩm hai mùa, mùa nồm dó ngậm nước giãn ra, mùa hanh heo dó lại khô nòm. Cứ khô ướt như thế đến chừng mười năm trở ra thì tờ giấy ổn định, mềm ra. Lúc ấy dó ăn mực ăn màu điềm đạm, độ loang thấm có thể điều khiển theo ý mình, vẽ đến đâu êm ru đến đó.
Dó mới ra lò thường đanh cứng vì trong giấy còn lớp hồ nhớt kết dính còn mới, chưa tản đều, nên mặt giấy đanh, làm cho độ thấm nước bị hạn chế. Cho nên người vẽ dó thường mua trữ giấy hàng năm để dành. Còn khi vẽ thì dùng giấy mười lăm năm hoặc hai mươi năm tuổi.
Khi nắm được tính nết của dó thì muốn vẽ mềm mại hoặc đanh cứng, hoặc mờ ảo đều có thể điều khiển được. Chỉ có điều dó giống tính người phương Đông, ôn tồn nhẫn nại thì được việc, nôn nóng sốt ruột thường hỏng ăn. Lúc buồn bực hoặc có việc gì đang vướng bận trong đầu, tinh thần không tập trung thì đừng sờ mó vào dó. Còn khi đã quen với dó, trong lòng thanh thản, lại đang hứng bút thì dù giấy mới ra lò người vẽ cũng khắc phục dễ dàng.
Dó khác với lụa, vẽ trên dó khó hơn vẽ trên lụa vì khi đã sa bút lỡ tay bị lỗi thì khó khắc phục hơn lụa. Đúng ra là không thể khắc phục. Vì không thể phủ màu bột lên chỗ hỏng. Phủ màu bột mặt tranh sẽ bì, nếu bột nhiều keo thì keo sẽ làm bết mặt giấy, không còn giữ được vẻ óng ả mượt mà của mặt dó nữa. Vẽ dó cũng là lối nhuộm màu nhẹ nhàng lên giấy. Xem tranh người ta còn có thể nhìn thấy sợi giấy.
Muốn vẽ dó cho đẹp, trước ngày vẽ đem bỏ giấy xuống gậm giường, nhà đất càng tốt để cho giấy ngậm nước trong không khí mềm ra. Cũng có thể dùng ống phun, phun nhẹ một lớp nước lên mặt giấy rồi ép chồng lên nhau, tờ khô tờ ướt để một hai ngày mới vẽ càng tốt. In tranh khắc gỗ cũng chuẩn bị như vậy, trừ giấy dó điệp là không được để ẩm , sẽ bị bong khi in.
Do vậy tranh dó bao giờ trông cũng nhẹ nhàng mềm mại óng chuốt, ưa nhìn.
Khi vẽ bột màu hay tempera, sơn dầu hoặc acrylic lên dó thì giấy dó chỉ còn là vai trò làm đế tranh, mặt giấy không còn tham gia vào vai trò tạo hình nữa, vì các chất liệu màu đặc trên đã phủ lấp toàn bộ mặt giấy. Cho nên không thể gọi đó là tranh dó nữa.
Giấy dó điệp có bề mặt lát kín, không hở mặt dó. Mặt điệp óng ánh chỉ để in tranh khắc là đẹp, còn vẽ màu nước hoặc màu bột lên thì không hiệu quả. Có thể nói dó điệp là sáng tạo đặc biệt chỉ cho việc in tranh khắc gỗ dân gian xa xưa của ông cha ta đạt hiệu quả cao nhất về thẩm mĩ.
Còn vẽ màu bột lên giấy dó, dù mặt dó bị bít kín, nhưng có khác một số chất liệu trên vì tranh bột vẫn ngấm hơi ẩm, cũng khô ướt theo mùa, nên những hạt màu vì thế mà thẩm thấu sang nhau , tạo nên những sắc lạ mà lúc đầu vẽ chưa thấy. Đó là hiện tượng đã ngấu màu, tranh thêm độ quí. Độ hút nước của dó rất lớn nên vẽ bột màu lên dó màu rất bám và trong trẻo, tranh dễ đẹp. Họạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm trước đây có vẽ tranh con giống lên dó, ông giữ tranh lâu, có nhiều bức màu lên men rất đẹp.
Theo Đỗ Đức ( TCMT)
|
PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.
LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .
NGUYỄN BÙI VỢICách mạng tháng Tám thành công, Phùng Quán mới 13 tuổi. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, cậu bé sinh ra ở làng Thuỷ Dương xứ Huế chỉ được học hết tiểu học, sáng đi học, chiều giúp mẹ chăn trâu, có năm đi ở chăn trâu cho một ông bác họ.
TRẦN HUYỀN SÂM Người tình là một cuốn tiểu thuyết hiện đại nổi tiếng của M.Duras. Tác phẩm đoạt giải Goncourt 1984, và đã từng gây một làn sóng xôn xao trong dư luận. Người tình được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm cũng đã được chuyển thành kịch bản phim 1992 (qua đạo diễn Jean-Jacques Annaud).
ĐÀO NGỌC CHƯƠNGCho đến nay những ý kiến về phương diện thể loại của tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử vẫn chưa thống nhất. Theo Trần Thanh Mại, đó là bài văn xuôi: “Nay xin đơn cử ra đây một vài đoạn của một bài văn xuôi của Hàn để chứng tỏ thêm cái sức cảm thụ vô cùng mãnh liệt ở nơi nhà thơ lạ lùng ấy.
TRẦN NHẬT THƯTrong tiến trình nghệ thuật nhân loại, bên cạnh một thế giới hết sức “quan phương”, “hoàn kết” bao giờ cũng là một “thế giới lộn trái” đầy mê hoặc.
NGUYỄN XỚNXét trên quy mô toàn cầu, vào những năm cuối của thế kỷ XX, trước sự phát triển phi mã của công nghệ và ý thức máy tính, văn học đã biểu hiện nhiều vấn đề rất đáng quan tâm. Thực tế này được mang vào thế kỷ mới một cách dễ dàng, không hề gặp một sự kiểm soát nào.
BÙI MINH ĐỨCLGT: Công trình khảo cứu dưới đây, phần lớn đã được công bố trong Hội thảo khoa học “Tây Sơn - Thuận Hóa và Anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ - Quang Trung”. Một số báo, tạp chí đã lược trích đăng một phần bài viết. Mới đây, tác giả-bác sỹ Bùi Minh Đức (Hội viên Hội Tai Mũi Họng và Đầu Cổ Hoa Kỳ (Fellow), Hội viên Hội Mũi Học Hoa Kỳ (Fellow), Hội viên Hội Tai Mũi Họng và Đầu Cổ Đức Quốc (FachArzt HNO), nguyên Chủ nhiệm Bộ Môn Tai Mũi Họng, Đại học Y Khoa Huế trước 1975) đã gửi cho SÔNG HƯƠNG công trình khảo cứu này (có sửa chữa và bổ sung) để độc giả tạp chí có đầy đủ tư liệu. Trân trọng những lý giải khoa học hết sức mới mẻ của tác giả, SÔNG HƯƠNG xin giới thiệu toàn văn công trình này.
BỬU NAM Gặp Trần Đình Sử trong một hội thảo lớn toàn quốc, hội thảo "Tự sự học" do anh đồng khởi xướng và đồng tổ chức, tôi xin anh một cuộc trò chuyện về tình hình lý luận và phê bình văn học hiện nay. Anh vui vẻ gật đầu và nói: "Gì thì gì không biết, chứ với Tạp chí Sông Hương, tôi không thể khước từ. Trước hết, đây là một tạp chí văn học đứng đắn, có sắc thái riêng, vả lại còn là tình cố hương, bởi dù gì thì gì tôi vẫn là người con của xứ Huế cố đô."
NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc 2 bài viết của Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn Hòa)*
PHẠM PHÚ PHONGNguyễn Huy Thiệp là một trong những hiện tương văn học hiếm hoi. Ngay từ những truyện ngắn đầu tay như Huyền thoại phố phường, Muối của rừng, Tướng về hưu... tên tuổi của anh đã nổi bật trong và ngoài nước.
PHONG LÊ(Nhìn từ bình diện ngôn ngữ)Dân tộc là một phạm trù lịch sử. Văn học dân tộc do vậy cũng là một phạm trù lịch sử, hình thành và phát triển theo lịch sử.
HOÀNG NGỌC HIẾN“…Tất cả những sự cách tân này cần thiết cho sau đó một chủ nghĩa cổ điển mới có thể xuất hiện…” Paul Valéry
TRẦN HUYỀN SÂMNgười ta nói “Phê bình là bà đỡ cho tác phẩm”, nhưng người ta cũng nói: “Nhà phê bình là con chó ăn theo nhà văn”.
NHỤY NGUYÊN thực hiện
Thi nhân Việt Nam hiện đại - bộ bản thảo trường thiên hoành tráng về nền thi ca Việt hiện đại dự tính 4.000 trang khổ 15,5 x 20,5 cm, bao gồm 2.200 trang tiểu luận và 1.800 trang tuyển thơ của nhà phê bình văn học Thái Doãn Hiểu.
NGUYỄN VĂN THUẤNLTS: Nhóm nghiên cứu, lý luận phê bình trẻ” bao gồm sinh viên và cán bộ giảng dạy trẻ đến từ các trường đại học ở Huế (chủ yếu là Khoa Ngữ văn - ĐHSP Huế), với sự chủ trì của Ts. Trần Huyền Sâm. Nhóm hình thành trong tháng 6 - 2008 vừa qua với sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương và Nhà sách Cảo Thơm.
Trong hoạt động văn học, cùng với mối quan hệ giữa tác phẩm với hiện thực, tác phẩm với nhà văn, mối quan hệ giữa tác phẩm và bạn đọc cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong quy trình vận hành từ hiện thực - nhà văn - tác phẩm đến bạn đọc.
LTS: Ngày 19/12/2007, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định thành lập Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo, Hội đã có buổi ra mắt nhân dịp gặp mặt thân mật đại biểu cơ quan báo chí toàn quốc vào ngày 20/5/2008.Chúng tôi xin lược trích bài phát biểu của đồng chí Phùng Hữu Phú - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.
Thuyết phân tâm học của S.Freud và về sau là C.G.Jung và các người kế nghiệp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng của con người hiện đại, bao gồm cả nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực văn học nghệ thuật. Tuy vậy, ở ta, do nhiều lý do chủ quan và khách quan, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về sự ảnh hưởng của phân tâm học trong văn học - nhất là văn học hiện đại Việt .
Trong thập niên 1970 danh từ thi pháp (poétique) trở thành thông dụng, thi pháp học dần dần trở thành một khoa học phổ biến, dính liền với ngành ngữ học, trong một khung cảnh học thuật rộng lớn hơn, là khoa ký hiệu học.