Giấy dó- Chuyện vãn ngày xưa

14:59 13/01/2010
Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...

Câu chuyện lịch sử

Vì sự bền chắc của nó, giấy còn được chế tác làm giấy sắc phong cho các triều đình nhà nước phong kiến. Hà Nội có dòng họ Lại ở làng Nghĩa Đô nổi danh về nghề làm giấy Long Đằng này (long đằng, có nghĩa là rồng đang bay : đằng vân - giá vũ). Giấy dó thủ công có độ bền trăm năm ngàn năm. Những sắc phong đình làng của các triều vua cách đây dăm bảy trăm năm còn đến ngày nay mở ra vẫn như mới. Đó là minh chứng rõ nhất.

Người làng Đông Hồ từ lâu đã biết làm ra giấy dó điệp để in tranh. Điệp là vỏ những con điệp, một loài nhuyễn thể ở vùng nước lợ đã chết đọng thành vỉa. Người ta khai thác đem về cho vào cối giã rồi lọc phơi, nắm lại thành từng nắm to bằng vốc tay. Điệp giã nhỏ được thái vào nồi hồ loãng, quấy đều. Dùng chổi làm bằng gỗ thông nhúng vào quét lên mặt dó, sau đấy áp tờ giấy lên bờ tường phơi nắng cho khô rồi bóc ra. Thế là ta đã có tờ giấy dó điệp.

Theo họa sĩ Nguyễn Đức Hòa, họa sĩ và cũng là nhà nghiên cứu mĩ thuật, thì anh khẳng định, dó điệp là sản phẩm thuần Việt, dùng để in tranh khắc Đông Hồ.

Trước đây họa sĩ chỉ dùng giấy dó để ghi chép. Độ thấm nước của giấy điềm đạm hơn giấy Xuyên( xuyến chỉ) của Trung Quốc. Người ta không coi nó là chất liệu của hội họa. Sau này dó được các họa sĩ dùng để vẽ tranh thấy hiệu quả không hề thua kém các chất liệu khác mà độ bền của dó tưởng là mỏng manh lại bất chấp thời gian, bền hơn cả sơn dầu và sơn mài, nếu biết cách giữ cho khô ráo vì nó không phải giấy công nghiệp, không có độ kiềm, không tự hủy.

Tranh giấy dó để càng lâu, màu càng thắm. Những hạt màu siêu nhỏ đọng trên mặt giấy lâu ngày thẩm thấu sang nhau tạo nên những màu kì ảo mà tay người nhiều khi không làm được, gọi là tranh “lên men”. Những tranh Đông Hồ để lâu ba bốn mươi năm nay cho thấy rõ điều đó.

Thuở theo học tại trường Yết Kiêu, khi xem bức ký họa mực nho của thày Nguyễn Trọng Hợp vẽ một góc chùa Bút Tháp, tôi thấy đẹp lạ lùng, và từ đấy lặng lẽ đi vào chất liệu này. Đến nay đã ngoài hai mấy năm tôi đi với giấy dó và thể nghiệm đủ thứ về dó, và nhận ra những hiệu quả bất ngờ từ dó. Không dám nói là đã đạt được được gì lớn lao, nhưng đã có những tranh đẹp trên dó.

Đã có thời giấy dó lên ngôi, tranh giấy dó được người nước ngoài sưu tập tạo nên trào lưu “tranh dó”. Khi đã nhà nhà vẽ dó, người người vẽ dó thì hậu quả thế nào mọi người đã biết. Thói adua và tâm lí bầy đàn ( cả người mua lẫn người vẽ) cộng với thói hám lợi mì ăn liền của kinh tế thị trường đã làm hỏng dần đi chất lượng tranh trước mắt người sưu tập. Cuối cùng giấy dó lại trở về sống âm thầm cùng chất liệu lụa vang bóng một thời.

Thầm thĩ như tiếng đàn bầu, duyên sâu và nặng, dó là vậy. Rõ ràng giấy dó là tấm giấy thông hành của cha ông mình cấp cho để ta có thể ngồi chung chiếu với mĩ thuật thời hội nhập cùng các quốc gia trên thế giới. Nhưng chính chúng ta vẫn coi thường chất liệu có giá trị này.

Nhưng cũng cần nói thêm giấy dó bây giờ hàm lượng sợi dó nguyên chất ít, dó bị pha thêm bột giấy nên giấy không dai, dễ mủn nát khi gặp nước. Dó nguyên chất, mặt dó mịn như lụa, màu sữa ngà, xé được tờ dó cũng không dễ. Tờ dó kép 7 mà người ta có thể dễ dàng bóc được ra từng lớp mà không bị xước rách. Dó bán trên thị trường hiện không được chất lượng như vậy.

Cách dùng giấy dó

Giấy dó để càng lâu vẽ càng hay. Thời tiết của ta nóng ẩm hai mùa, mùa nồm dó ngậm nước giãn ra, mùa hanh heo dó lại khô nòm. Cứ khô ướt như thế đến chừng mười năm trở ra thì tờ giấy ổn định, mềm ra. Lúc ấy dó ăn mực ăn màu điềm đạm, độ loang thấm có thể điều khiển theo ý mình, vẽ đến đâu êm ru đến đó.

Dó mới ra lò thường đanh cứng vì trong giấy còn lớp hồ nhớt kết dính còn mới, chưa tản đều, nên mặt giấy đanh, làm cho độ thấm nước bị hạn chế. Cho nên người vẽ dó thường mua trữ giấy hàng năm để dành. Còn khi vẽ thì dùng giấy mười lăm năm hoặc hai mươi năm tuổi.

Khi nắm được tính nết của dó thì muốn vẽ mềm mại hoặc đanh cứng, hoặc mờ ảo đều có thể điều khiển được. Chỉ có điều dó giống tính người phương Đông, ôn tồn nhẫn nại thì được việc, nôn nóng sốt ruột thường hỏng ăn. Lúc buồn bực hoặc có việc gì đang vướng bận trong đầu, tinh thần không tập trung thì đừng sờ mó vào dó. Còn khi đã quen với dó, trong lòng thanh thản, lại đang hứng bút thì dù giấy mới ra lò người vẽ cũng khắc phục dễ dàng.

Dó khác với lụa, vẽ trên dó khó hơn vẽ trên lụa vì khi đã sa bút lỡ tay bị lỗi thì khó khắc phục hơn lụa. Đúng ra là không thể khắc phục. Vì không thể phủ màu bột lên chỗ hỏng. Phủ màu bột mặt tranh sẽ bì, nếu bột nhiều keo thì keo sẽ làm bết mặt giấy, không còn giữ được vẻ óng ả mượt mà của mặt dó nữa. Vẽ dó cũng là lối nhuộm màu nhẹ nhàng lên giấy. Xem tranh người ta còn có thể nhìn thấy sợi giấy.

Muốn vẽ dó cho đẹp, trước ngày vẽ đem bỏ giấy xuống gậm giường, nhà đất càng tốt để cho giấy ngậm nước trong không khí mềm ra. Cũng có thể dùng ống phun, phun nhẹ một lớp nước lên mặt giấy rồi ép chồng lên nhau, tờ khô tờ ướt để một hai ngày mới vẽ càng tốt. In tranh khắc gỗ cũng chuẩn bị như vậy, trừ giấy dó điệp là không được để ẩm , sẽ bị bong khi in.

Do vậy tranh dó bao giờ trông cũng nhẹ nhàng mềm mại óng chuốt, ưa nhìn.

Khi vẽ bột màu hay tempera, sơn dầu hoặc acrylic lên dó thì giấy dó chỉ còn là vai trò làm đế tranh, mặt giấy không còn tham gia vào vai trò tạo hình nữa, vì các chất liệu màu đặc trên đã phủ lấp toàn bộ mặt giấy. Cho nên không thể gọi đó là tranh dó nữa.

Giấy dó điệp có bề mặt lát kín, không hở mặt dó. Mặt điệp óng ánh chỉ để in tranh khắc là đẹp, còn vẽ màu nước hoặc màu bột lên thì không hiệu quả. Có thể nói dó điệp là sáng tạo đặc biệt chỉ cho việc in tranh khắc gỗ dân gian xa xưa của ông cha ta đạt hiệu quả cao nhất về thẩm mĩ.

Còn vẽ màu bột lên giấy dó, dù mặt dó bị bít kín, nhưng có khác một số chất liệu trên vì tranh bột vẫn ngấm hơi ẩm, cũng khô ướt theo mùa, nên những hạt màu vì thế mà thẩm thấu sang nhau , tạo nên những sắc lạ mà lúc đầu vẽ chưa thấy. Đó là hiện tượng đã ngấu màu, tranh thêm độ quí. Độ hút nước của dó rất lớn nên vẽ bột màu lên dó màu rất bám và trong trẻo, tranh dễ đẹp. Họạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm trước đây có vẽ tranh con giống lên dó, ông giữ tranh lâu, có nhiều bức màu lên men rất đẹp.

Theo Đỗ Đức ( TCMT)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Tóm tắt: Nhà báo – nhà văn Dương Thị Xuân Quý  sinh ngày 19 tháng 4 năm 1941, hy sinh ngày 8 tháng 3 năm 1969.  Bà nguyên là phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1968.

  • PHAN NGỌC

    Giàu (,) ba bữa, khó (,) hai niêu,
    Yên phận (,) thì hơn hết mọi điều
    Khát, uống chè mai: hơi (,) ngọt ngọt;
    Sốt, kề hiên nguyệt: gió (,) hiu hiu.
    Giang sơn tám bức, là tranh vẽ;
    Phong cảnh tứ mùa, ấy gấm thêu
    Thong thả: hôm (,) khuya nằm, sớm thức,
    Muôn vàn đã đội đức trời Nghiêu.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN

    (Nhân đọc mấy truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp)

  • LGT: Cuộc thi viết cảm nhận tác phẩm văn học Hàn Quốc (lần thứ IX - năm 2014) do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Viện Dịch thuật văn học Hàn Quốc tổ chức. Cô sinh viên năm thứ tư Hồ Tiểu Ngọc được khoa Ngữ văn, trường Đại học khoa học, Đại học Huế cử tham gia, đã vinh dự nhận giải Nhì qua bài phê bình tập truyện ngắn Điều gì xảy ra, ai biết… của nhà văn Hàn Quốc Kim Young Ha, dịch giả Hiền Nguyễn.
    BBT Sông Hương vui mừng giới thiệu đến bạn đọc bài viết đạt giải cao này.

  • (Cuộc trưng cầu ý kiến các giảng viên dạy lý luận và lịch sử văn học ở các trường ĐHTH ở Liên Xô)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Ngồi buồn lại trách ông xanh
    Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
    Kiếp sau xin chớ làm người
    Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

                             (Nguyễn Công Trứ)

  • NGUYỄN KHẮC THẠCH

    Không biết ngẫu nhiên hay cố ý mà tập thơ sẽ in riêng của nhà thơ Trần Lan Vinh lại mang tên với chữ đầu là Lục (sáu) – Lục bát đồng dao? Thôi thì cứ nói theo khẩu ngữ nhà Phật là tùy duyên nhưng điều quan trọng lại không phải ở phần cứng đó mà ở phần mềm hoặc không ở chỗ thể mà ở chỗ dụng của danh xưng.

  • LTS: Thời gian qua, thơ Tân hình thức Việt đã bắt đầu được nhiều bạn đọc, bạn thơ quan tâm. Tuy nhiên, nhiều người vẫn băn khoăn về việc làm sao để đọc một bài thơ Tân hình thức? Làm sao để giữ nhịp điệu của thơ?... Bài viết dưới đây của Biển Bắc, nhằm giới thiệu cách đọc-diễn một bài thơ Tân hình thức Việt. Vì muốn làm sáng ý nguyện ngôn ngữ đời thường nên bài viết sử dụng ngôn ngữ rất THT Việt. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN

    Xuân đã đem mong nhớ trở về
    Lòng cô gái ở bến sông kia
    Cô hồi tưởng lại ba xuân trước
    Trên bến cùng ai đã nặng thề…

                          (Nguyễn Bính)

  • DÂN TRÍ

    Không học chữ Nho, nghe qua hai câu thơ Hán Việt vừa dẫn thì cũng có thể hiểu được nghĩa lý một cách mang mang hồn sử thi.

  • HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

    Khi mới học cấp 2, tôi đã thấy trong tủ sách nhà tôi có hai cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan và Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân do một người dượng mua về từ Sài Gòn.

  • THÁI KIM LAN

    Bài viết này chỉ là một phác thảo gợi ý về sự nghiệp và ảnh hưởng của hai nhà nữ trí thức miền Nam trong những thập niên 60, 70. Phùng Thăng tạ thế cuối thập niên 70. Phùng Khánh đã là Ni sư giữa thập niên 60 và trở nên một Ni sư Trưởng lỗi lạc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam trước và sau 1975, liễu sinh 2003.

  • YẾN THANH

    “Vĩnh biệt mày, cái thằng không biết tưởng tượng. Mày tự mà đốt đuốc cho cuộc hành trình thăm thẳm của mày đi”

  • ĐỖ LAI THÚY

    Trong một vài năm gần đây, nhiều nhà phê bình và nghiên cứu văn học đã có những cố gắng đáng kể để thoát ra khỏi tình trạng tiếp cận văn học một cách xã hội học có phần dung tục, hướng đến cách tiếp cận mới xuất phát từ đặc trưng của chính bản thân văn học. Một trong nhiều đường hướng nghiên cứu có triển vọng đó là phong cách học.

  • Cần phải nói ngay, Tưởng tượng & Dấu vết là cuốn tiểu thuyết khó đọc. Nó khó đọc vì hai lẽ: thứ nhất, nền tảng logic văn bản không nằm trong phương pháp tạo dựng hay trong tri thức thực hành của tác giả, mà nó nằm sâu trong yếu tính[2] thời gian.

  • ĐINH VĂN TUẤN

    Thi hào Nguyễn Du khi sáng tác “Truyện Kiều” đã đặt tên cho tác phẩm nổi tiếng này là gì? Cho đến nay, giới nghiên cứu Kiều vẫn còn phân vân, chưa dứt khoát hẳn một nhan đề nào là khởi đầu do cụ Nguyễn Du đặt.

  • KHẾ IÊM
    Tặng nhà thơ Biển Bắc và Hồ Đăng Thanh Ngọc

    Nhà thơ và nhà nghiên cứu Mỹ Timothy Steele, trong bài viết “Phép làm thơ cho những nhà thơ thế kỷ 21”, nhấn mạnh, cách làm thơ trong thế kỷ tới sẽ là tuôn nhịp điệu ngôn ngữ nói vào thể luật, để hình thành nhịp điệu thơ.

  • HOÀNG DŨNG, BỬU NAM

    (Phỏng vấn nhà sử học Nguyễn Hồng Phong, nhà văn Huy Phương và nhà phê bình văn học Phương Lựu)