Giải thích câu Kiều 2168: “Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”

16:32 30/05/2008

LTS: Có nhiều cách hiểu về câu thơ trên. Y kiến của cụ Thanh Huy - Cử nhân Văn khoa Việt Hán, sinh 1916 tại Huế, cũng là một ý có thể tham khảo đối với những ai quan tâm Truyện Kiều, để hiểu thêm và đi đến kết luận về cách tính thước tấc của người xưa.
SH

Truyện Kiều ra đời đã lâu nhưng đến nay câu 2168 ấy chưa ai giải thích cụ thể rõ ràng. Lâu nay các nhà nghiên cứu Truyện Kiều phần nhiều không giải thích, có vị giải thích lại không thoả đáng, ví dụ Nguyễn Văn Vĩnh bảo một thước bằng 0,44m - mười thước bằng 4,40m. Trên báo chí cũng đã có nhiều người nêu câu hỏi nhưng vẫn chưa có câu trả lời đúng đắn. Tôi tin là Nguyễn Du không viết lên một câu thơ vô ý nghĩa. Do đó tôi tìm tòi những tư liệu nói về chiều cao của con người và đã biết được như sau:
1. Tang Duy Hàng, đời Tần, có tiếng chăm học, người lùn, thân cao bảy thước (7 th) X.Thành ngữ điển tích của Diên Hương, tập 2, tr.120.
2. Hạng Võ, người mạnh có tiếng của Trung Hoa, bề cao tám thước (8 th) X. Văn Đàn Bảo Giám tập 3, tr.26, có bài thơ Bái Công khóc Hạng Võ của Tôn Thọ Tường có câu: “Cái thân tám thước tủi cùng thân”.
3. Khổng Tử cao chín thước sáu tấc (9 th 6 tấc) X.Thành ngữ Điển tích của Diên Hương, tập 1, tr.207.
4. Vua Văn Vương nhà Chu cao mười thước (10 th) X. Truyện Kiều do Bùi Khánh Diễn chú thích, tác giả đã so sánh Từ Hải với vua Văn Vương cũng cao mười thước (10 th).
Lại xem trong tác phẩm Luận cổ suy kim (lời bình về Tam quốc chí) của Mộng Bình Sơn, NXB TP. HCM 1996 có tả hình dạng các nhân vật như sau:
- Lưu Bị, Trương Phi, Mã Siêu... cao tám thước (8 th).
- Quan Vân Trường cao chín thước (9 th). ..vv....
Xem trên thì biết thực tế có người cao người thấp khác nhau. Người thanh niên mà cao bảy thước là người lùn, còn thường thì cao tám, chín, mười thước...
Nguyễn Du đã tả hình dáng Từ Hải bằng một câu thơ tám chữ rất hay, đoạn trên và đoạn dưới trong câu đối rất chỉnh, lời văn đẹp, nhạc điệu tuyệt vời và nghĩa rất chính xác chứ không phải là câu thơ theo lối văn chương ước lệ như nhiều người đã tưởng.
Vậy chúng ta cần tìm hiểu mười thước là bao nhiêu, bằng chừng nào? Mấy lâu nay còn lúng túng vì nghiên cứu chưa đúng phương pháp, chưa khoa học. Nay chúng ta cần tìm hiểu nghĩa chữ Thước. Chúng ta hẳn đã biết chữ Thước là dịch Hán tự Xích ( ) mà ra. Tham khảo Từ điển Giải tự của Trung Quốc và bản Caractères Chinois (Hán tự) giải thích nguyên gốc Hán tự của nhà truyền giáo Leon Wieger in ở Đài Loan bằng tiếng Pháp thì chữ xích ( ) có nguyên nghĩa là một gang tay dài phỏng hai tấc tây (0,20 m). Đối chiếu thì mười thước tức là mười xích đo phỏng hai mét (2m). Vai năm tấc rộng tức phỏng một tấc tây (0,1m). Vai rộng đo từ phía trước ra sau. Với kích thước ấy Từ Hải cao, to, dũng mãnh, cân đối, có vẻ đẹp thẩm mỹ. Các vận động viên nhiều người cao và to lớn bằng hoặc hơn Từ Hải là chuyện thường. Muốn hiểu rõ chữ Xích xin xem Từ điển Giải tự của Trung Quốc hay bản tiếng Pháp Caractèrres Chinois của Leon Wiegerr tr.92.
Như vậy chúng ta đối chiếu thì biết người cao bảy thước (7 th) tức là 1,40m, người cao 8 th tức là 1,60 m, cao 9 th tức 1,80 m v.v....

THANH HUY

(nguồn: TCSH số 151 - 09 - 2001)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ QUYÊNVài năm nay, người Việt ở khắp nơi, trong và cả ngoài văn giới, tranh luận rất nhiều về trào lưu Hậu hiện đại (Postmodernism) như một nan đề. Dù đồng ý hay không đồng ý với nó, ai cũng mong muốn cần đổi mới trong xu hướng văn chương của Việt Nam và mang tinh thần thế giới.

  • (Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường, par Nguyễn Đình Hòe, B.A.V.H. 1914 p. 145-146)

  • INRASARA1. Lạm phát thơ, ra ngõ gặp nhà thơ, người người làm thơ nhà nhà làm thơ, thơ nhiều nhưng nhà thơ không có bao nhiêu… Đã thấy khắp nơi mọi người kêu như thế, từ hơn chục năm qua(1). Kêu, và bắt chước nhau kêu. Kêu, như thể một phát âm rỗng, vô nghĩa, hết cả sức nặng. Từ đó tạo thành thói quen kêu, nhàm và nhảm.

  • TÔ NHUẬN VỸ(Nhân hội thảo con đường văn học Việt Nam vào Hoa Kỳ tổ chức tại Hà Nội từ 31/5 đến 3/6)

  • KHÁNH PHƯƠNGMột năm, trong tiến trình văn học, thường không có ý nghĩa đặc biệt nếu không nén chặt các sự kiện nghề nghiệp quan trọng, mà không phải năm nào cũng có được duyên may đó.

  • (Tường thuật từ Hội thảo “Thơ đến từ đâu” ở Tạp chí Sông Hương)

  • LÊ XUÂN VIỆTHơn bảy năm qua, kể từ ngày Bình Trị Thiên hợp nhất tỉnh. Trong thời gian ấy, hiện thực cách mạng đã diễn ra trên mảnh đất anh hùng này thật sôi động, lớn lao. Văn xuôi Bình Trị Thiên đã góp phần cùng với các loại hình văn học nghệ thuật khác phản ánh hiện thực đó, tạo nên món ăn tinh thần quý giá động viên, cổ vũ nhân dân xây dựng cuộc sống mới. Để thấy rõ hơn diện mạo của văn xuôi, chúng ta thử nhìn lại sự phát triển của nó.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó một người bạn cùng nghề, cùng lứa, một nhà văn viết truyện ngắn mà tên tuổi không xa lạ lắm đối với bạn đọc, có lần đã tâm sự với tôi như thế nầy: “Tôi không bao giờ muốn viết bút ký. Dẫu có những cái nó là thực đến một trăm phần trăm, nó là ký rõ ràng, thì tôi vẫn cứ uốn nắn nó lại đôi chút để thành truyện ngắn”.

  • NGUYỄN THỊ KIM TIẾNTiểu thuyết lịch sử là một loại hình tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Khác với các xu hướng tiểu thuyết khác ở đối tượng và cách tiếp cận hiện thực đời sống, tiểu thuyết lịch sử đã đưa đến một cách lý giải con người dựa trên cơ sở vừa lấy lịch sử làm “đinh treo” vừa tận dụng kết hợp những đặc trưng thuộc về thể loại tiểu thuyết, mang lại một kiểu tư duy văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng nhiều phương diện mới mẻ.

  • HOÀNG THỊ QUỲNH ANHTrương Đăng Dung dạo vườn thơ khi mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978, ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy lâu nay.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ“Cốt truyện” là thuật ngữ quen dùng trong nghiên cứu văn học Việt Nam, chỉ một đặc điểm của tác phẩm tự sự có từ lâu đời, được dịch từ tiếng Nga siuzhet, tiếng Anh plot, tiếng Pháp sujet.

  • ĐỖ LAI THÚY1. Ở ta không biết tự bao giờ, trong số đông, đã hình thành một hệ giá trị: lý luận là nhất, nghiên cứu thứ hai, còn phê bình thì đứng đội bảng. Bởi thế mở nghiệp bằng phê bình và dựng nghiệp bằng nghiên cứu là đại lộ quen thuộc của nhiều người.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNThể loại tiểu thuyết đã ra đời và có lịch sử vận động khá lâu dài. Ít nhất, ở châu Âu, thể loại này đã có từ gần năm thế kỷ.

  • CHƯƠNG THÂUNói về sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc, chúng ta dễ dàng ghi nhận những thành tích của giáo dân, đặc biệt của các nhân sĩ trí thức, anh hùng liệt sĩ “kính Chúa yêu nước”.

  • Viện sĩ A-lếch-xan-đơ Đa-ni-lô-vích A- lếch- xan- đrốp là một nhà toán học lỗi lạc, đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi ông mới 24 tuổi, sau đó nhiều năm giữ cương vị hiệu trưởng trường Đại học tổng hợp Lê- nin- grát. Ngoài toán học ra, ông còn quan tâm tới nhiều lãnh vực khoa học khác như đạo đức học, triết học, khoa học... Viện sĩ ưa thích làm thơ, và điều đặc biệt thú vị là ở tuổi 70, ông đã leo lên tới một trong những đỉnh núi của dải Thiên Sơn hùng vĩ... Sau đây là cuộc trao đổi giữa viện sĩ và phóng viên tờ “Nước Nga Xô viết”

  • LGT: Sau hơn chục năm nghiên cứu kết hợp với nhiều chuyến điền dã, ông Lê Quang Thái đã ghi chép lại Vè thất thủ Kinh đô (kể cả dị bản) trên cơ sở chú giải tỉ mỉ và cặn kẽ nhằm mở ra cho độc giả một cái nhìn bao quát về bối cảnh Kinh đô Huế ngày thất thủ và những năm tháng kế tục.Trân trọng tâm huyết và công lao của tác giả, Sông Hương xin giới thiệu tới bạn đọc một chương khá quan trọng trong công trình kể trên của ông Lê Quang Thái, hiện công tác tại Trung tâm Liễu quán Huế.S.H

  • LƯU KHÁNH THƠ“Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường... Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc một bài viết của Lê Quý Kỳ)

  • HÀ VĂN LƯỠNG 1. Trên hành trình của văn học Việt Nam hiện đại mà nói rộng ra là văn học Việt Nam thế kỉ XX, bên cạnh việc phát huy và giữ gìn bản sắc và những truyền thống văn hóa dân tộc thì nhu cầu giao lưu, tiếp thu văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học phương Tây để góp phần hiện đại hóa nền văn học dân tộc trở thành một nhu cầu cần thiết.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHVấn đề bản sắc địa phương trên tạp chí văn nghệ tỉnh nhà chúng ta đã có dịp bàn bạc, trao đổi nhưng chưa ngã ngũ. Có lẽ trong trường lực báo chí, tờ văn nghệ vẫn là chỗ nhạy cảm nhất về phương diện văn hóa. Hẳn nhiên, trong địa hạt ấy, tờ văn nghệ cũng là nơi khả kiến nhất về phương diện nghệ thuật. Câu hỏi đặt ra ở đây là bản sắc địa phương của tờ báo được xét theo phương diện nào? văn hóa hay nghệ thuật?