Giải Nobel văn học 2009: Herta Muller

14:48 04/12/2009
TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

Nhà văn Herta Muller - Ảnh: robaroundbooks.com

Herta Muller được Hội đồng Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel vì hai lẽ: lối viết dồn nén, giàu tính triết luận và tinh thần phê phán triệt để chế độ độc tài tại Romania.

Không như cách nói mỉa mai, cay cú của giới phê bình Mỹ, rằng bà là người vô danh, người chưa từng ai biết tới; ngược lại, Herta Muller hoàn toàn xứng đáng là một nhà văn tầm cỡ ngay từ những năm của thập niên 90, với các tác phẩm nổi tiếng như: The Land of Green Plums, Nadirs, The Passport, The Devil is Sitting in the Mirro, The Guard Takes His Comb, The Appointment...

Tác phẩm của bà đã đặt ra câu hỏi day dứt về sự tồn tại của con người sau thế chiến thứ hai của Đức; nỗi đau thiếu vắng quê hương và niềm khao khát về một thế giới tự do.

Herta Muller sinh năm 1953 ở Banat, Romania - một miền thiểu số hẻo lánh nói tiếng Đức. Nơi mà bà luôn mang nỗi đau: “thiếu quê hương”, và phải chối bỏ để sống một cuộc sống lưu vong.

Mang trong mình dòng máu của người cha - một lính chiến SS, thuộc Đức quốc xã, Muller luôn bị ám ảnh bởi cái chết và tội lỗi. Sáng tác của Herta Muller phản ánh bi kịch của một thế hệ nhà văn sau thế chiến: nỗi hoang mang, hoài nghi về sự tồn tại của con người. Đó là cảm hứng chung của các nhà văn Nobel gần đây như Gunter Gras(1999) và John.W. Coetzee (2003).

Herta Muller là một thông dịch viên, nhà thơ kiêm nhà tiểu thuyết. Bà sử dụng hai thứ tiếng Đức và Romania; là thành viên của Viện Sprache und Dichtung, ở Darmstadt. Bà từng có những hoạt động thiết thực để đấu tranh cho tự do ngôn luận của giới trí thức. Vì lẽ đó, bà đã bị sa thải và các tác phẩm của bà đã bị kiểm duyệt gay gắt. Bà định cư ở Đức vào năm 1987.

Giải Nobel thuộc về Herta Muller, đó không chỉ là niềm vinh dự cho dân tộc Đức, mà còn là niềm kiêu hãnh cho chủ nghĩa nữ quyền (Féminisme). Chỉ trong sáu năm gần đây, ba nhà văn nữ trên thế giới đã đoạt giải Nobel văn học: E. Jelinek(2004) - tiểu thuyết gia người Áo, D. Lessing (2007) - tiểu thuyết gia người Anh, và H.Muller (2009).

T.H.S
(249/11-09)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • (Đọc tập thơ “Thế giới và tôi” của Ngô Tự Lập)Tôi kém Ngô Tự Lập hơn chục tuổi nhưng không “trẻ” hơn anh. Tuổi trẻ làm ta cao ngất lên, tuổi già đôi khi cũng vậy. Nhưng cao ngất lên ta thấy gì nào?

  • “Tết không vào nhà tôi”(*)nghĩa là tết không vào nhà Phùng QuánCâu thơ tâm trạngVấn nạn một đời

  • Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.

  • Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.

  • Chỉ trong vòng 63 năm từ 1930 đến 1993, văn học Mỹ đã vinh dự nhận được 11 giải Nobel. Đây là một thành tựu vượt bậc đáng tự hào mà không phải bất cứ một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đóng góp vào ánh hào quang ấy có John Steinbeck - nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ.

  • (Đọc “Thơ Trần Quốc Thực” – Nxb HNV 2007)Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoe mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp, sự âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh.

  • Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.

  • (Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.

  • Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...

  • Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người

  • Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.

  • Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.

  • Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm

  • Ai cũng biết, anh là tác giả của các tập thơ và trường ca Bến đợi, Hát rong, Hoa tường vi trong mưa, Ngựa trắng bay về, Gõ chiều vào bàn phím...với những thao thiết của dã quỳ vàng, của thông xanh, xoan tím, phượng hồng, những gió và nắng, những bùn lầy và cát bụi, những cần rượu và cồng chiêng