Giải Nobel văn học 2008: J. M. Le Clézio - nhà văn du mục

16:13 02/12/2008
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.

Chính cái tiêu chí mơ hồ này đã gây ra nhiều mâu thuẫn gay gắt, thậm chí đối đầu trong các thành viên Hội đồng xét duyệt và giới phê bình văn học. Vì vậy, mùa giải Nobel hàng năm, bao giờ cũng trở nên căng thẳng, hồi hộp, nó là trung tâm chú ý của các luồng dư luận báo chí và công chúng bạn đọc. Năm 2004, một thành viên đã xin ra khỏi Hội đồng xét duyệt vì bất bình với giải văn học người Áo E. Jelinek; còn công chúng thì phẫn nộ và cho rằng: đó là một nhà văn đàng điếm và khiêu dâm.  

Nobel văn học năm 2008 thuộc về nhà văn người Pháp: Jean - Marie Gustave Le Clézio - người được mệnh danh là nhà văn du mục, và từng được tạp chí Lire bình chọn là nhà văn đương đại lớn nhất nước Pháp.
Với giải thưởng này, J.M.Le Clézio đã “đánh bại” hai nhà tiểu thuyết nổi tiếng: Umberto Eco và Milan Kundera. Và như vậy, cho đến nay, Pháp vẫn là nước đứng đầu thế giới về giải Nobel văn học. Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã dành những lời cao quí nhất, để tôn vinh cho văn hào Le Clézio: “Giải thưởng này đã  làm vinh hiển cho nước Pháp, cho ngôn ngữ Pháp và những người nói tiếng Pháp...  Le  Clézio là một công dân của thế giới, đứa con của mọi châu lục và các nền văn hóa. Ông ấy là hiện thân cho sự hào quang của nước Pháp”(1).

2.
Điều gì khiến cho J.M.Le Clézio đoạt gải thưởng Nobel cao quí này? Viện Hàn Lâm Thụy Điển đã khẳng định: J.M.Le Clézio là tác giả của những khởi điểm mới, của cuộc phiêu lưu thi vị và là người khám phá ra một nhân loại ẩn chìm và đang bị thống ngự của nền văn minh. Le Clézio là hiện thân cho tinh thần nhân đạo, nỗi đau và sự sáng tạo vô biên của con người. Tác phẩm của ông là sự mời gọi, sự dẫn dụ người đọc chìm đắm vào thế giới tự nhiên hoang dã, huyền bí và tinh khiết. Nơi đó, con người sẽ “kìm nén” được sự nghiệt ngã, sự tàn khốc, sự dối trá của xã hội hậu hiện đại. Các nhân vật của ông là những người “khuân vác một giá trị đạo đức của cuộc sống”, và chính họ, khuyến khích sự tôn trọng mọi người, và tôn trọng chính mình.

Hai vấn đề mà Le Clézio đặt ra, đã bộc lộ tư tưởng sáng tác của ông: “Giá như, người da trắng không làm khổ người da đen, thì cuộc sống này sẽ tốt đẹp hơn không?”; và “Người viết tiểu thuyết bao giờ cũng đặt ra những câu hỏi lớn về thế giới hiện nay”. Nhìn chung, tác phẩm của Le - Clézio đều hướng đến thiên nhiên, thế giới trẻ em và sự bất hạnh của người da màu.

3.
Gia đình và cuộc đời của Le Clézio là một huyền thoại đầy thú vị và bí ẩn. Đó là “một tấm bản đồ không dễ vẽ”. Jean Marie Gustave Le Clézio là sự hòa hợp của hai dòng máu: Cha là một bác sĩ người Anh, mẹ là người Pháp, nhưng gốc gác tổ tiên của họ lại ở L’ile Maurice (một hòn đảo chứa đựng nhiều huyền thoại, nhiều bài ca thổ dân). Nice, một thành phố biển xinh đẹp thuộc miền nước Pháp, đó là nơi chốn chào đời của Le Clézio (vào ngày 13-2-1940). Tuổi thơ của Clézio chìm trong tiếng sóng hoang dại của miền biển Địa Trung Hải. Đó là cội nguồn nuôi dưỡng một tâm hồn luôn khát khao sáng tạo, khát khao du ngoạn, dấn thân và thử thách. Đồng nghĩa với danh hiệu nhà văn, Le Clézio một nhà du mục (nomade...). Tác phẩm và cuộc đời của ông là một bộ sưu tập sinh động nhất về dấu ấn của các nền văn minh hoang dại: từ châu Phi đến châu Mỹ, từ đất nước Ấn Độ đến Thái Lan.

Lên 8, Le Clézio theo cha đến , một vùng đất của châu Phi nóng nực và hoang sơ. Và sau đó là những cuộc du ngoạn khắp nơi trên các châu lục. Năm 1967, Le Clézio đến Thái Lan, với tư cách là nhân viên hợp tác. Tại đây, ông đã bị trục xuất về nước vì đã tố cáo nạn mại dâm trẻ em. Những năm tiếp theo, ông làm việc tại Viện nghiên cứu Châu Mỹ la tinh (L’Institut d’Amérique Latine). Chính vùng đất châu Mỹ này đã giúp ông hiểu sâu sắc về văn hóa thổ dân, hình thành những quan điểm về văn hóa, triết học và đạo đức. Ông có xu hướng xa rời vật chất của xã hội văn minh, chìm đắm trong thiên nhiên và sáng tạo nghệ thuật.
Le Clézio trải qua nghiên cứu văn học ở nhiều trường đại học. Từ 1957 đến 1961 là sinh viên Anh ngữ của Đại học Bristol và Londres (Luân Đôn); năm 1963 nhận bằng cử nhân văn học tại trường đại học Nice (Institut d’Etudes littéraires); và kết thúc khóa Cao học tại đại học Provence vào năm 1964. Ông hoàn thành luận án tiến sĩ vào năm 1983 ở đại học Berpignan với đề tài về lịch sử cổ điển của . Ông cũng đã từng giảng dạy ở nhiều trường đại học khác nhau trên thế giới: Bankok, , Boston, AustinAlbuquerque .

 Le Clézio không có “một ngôi nhà cụ thể”. Nhưng đảo Maurice, thành phố Nice, bang New Mexico là những nơi chốn ông gắn bó sâu sắc nhất. Ông sử dụng hai ngôn ngữ: Anh và Pháp. Cũng chính sự phức tạp về cội nguồn, về đời sống của văn hào này, mà sau khi Viện Hàn Lâm Thụy Điển công bố giải thưởng Nobel, công chúng châu Âu đã đặt ra câu hỏi: Le Clézio là nhà văn thuộc về đất nước nào? Mục báo Calou, l’ivre de de lecture băn khoăn: Est-il francais, britannique, mauricien? (Ông ta là người Pháp, người Anh quốc, hay người Mô-rít ta-ni?)(2). Số khác khẳng định rằng, Le Clézio chỉ là một nhà văn viết tiếng Pháp, chứ không phải là nhà văn đích thực người Pháp. Còn với Le Clézio, trong một lần trao đổi với Catherine Argand, vào năm 1994, ông tự nhận là: “Tôi là một người dân đảo Bretagne ... Người mà không thể thuộc về một quận, một thành phố nào cụ thể. Nhưng ngôn ngữ Pháp chính là đất nước của tôi, nơi cư ngụ của tôi. (Dẫn theo Fredrik Westerlund)(3). Dù thuộc về miền nào, dân tộc nào, Le Clezio là hiện thân của tinh thần khiêm ái, sáng tạo và tiến bộ của loài người. Đó là ý nghĩa đích thực mà người đọc chờ đợi ở nhà văn vừa đoạt giải  Nobel này.

4.
Văn hào Le Clézio sáng tác khi còn rất trẻ - lúc lên bảy, và hơn bốn mươi năm miệt mài cầm bút, ông đã đạt được một văn nghiệp đáng khâm phục: hơn 40 tác phẩm, đủ các thể loại, và gần mười giải thưởng văn học danh giá. Trong đó, tiểu thuyết là thể loại làm nên phong cách nghệ thuật và mang lại niềm vinh quang tột đỉnh cho cuộc đời sáng tạo của ông.

Viết, với ông là một yêu cầu của cuộc sống, một sự thôi thúc nội tâm. Viết, như một niềm vui sống và như một nỗi đau cần phải được đền bù. Viết, là dấn thân để mạo hiểm kiếm tìm điều đã mất và điều chưa biết đến. Với tiểu thuyết đầu tay Le Procès - verbal (Tạm dịch Biên bản), Le Clézio đoạt giải thưởng Renaudot vào năm 1963, và trở nên nổi tiếng lúc mới là 23 tuổi. Tác phẩm này cũng đã lọt vào danh sách tranh giải Goncourt. Cùng với các cuộc du ngoạn trên khắp châu lục, các tác phẩm của ông lần lượt ra đời: La Fièvre (1965), La Guerre (1970), Les Géants (1973), Voyages de l’autre côté (1976), L’inconnu sur la terre (1978), Désert (1980), Trois villes saintes (1980), Balaabilou (1985), Enfances (1997), Gens des nuages (1997), Révolutions (2003), L’Africain (2004) vv... Trong số đó, phải kể đến cuốn tiểu thuyết Désert (Sa mạc), 1980. Tác phẩm đoạt giải Paul Morand của Viện Hàn Lâm Pháp (1981) và được đánh giá là đỉnh cao trong sáng tác của ông: “Tác phẩm chứa đựng những hình ảnh tráng lệ về nền văn hóa đã biến mất trên sa mạc Bắc Phi”.

Ngoài thiên nhiên, du ngoạn, ký ức tuổi thơ, Nỗi đau (La Douleur) và Cái đói (La Faim) của loài người, là hai chủ đề nhức nhối trong tác phẩm của Le Clézio: La Fìevre, La ronde et autre faits diver, Moloch, Le passeu... Và gần đây nhất, tác phẩm Ritournelle de la faim (Sự lặp lại của cái đói, 2008), đã bộc tư tưởng nhân đạo sâu sắc của văn hào Le Clézio.
Sáng tác vào một thời điểm mà phong trào Tiểu thuyết mới ở Pháp đang nở rộ (Nouveau roman, 1965), Le Clézio nổi bật lên như một phong cách dị biệt, “trượt” ra ngoài lề của các “phong cách có tính thời thượng”. Theo Fredrik Westerlund, Le Clézio là một sự giao động giữa phong cách tiểu thuyết mới của Gobbe Grille và phong cách huyền ảo truyền thống, giữa trí tuệ của Blake và của Lautréamont. Ông đã vượt lên khái niệm “hư cấu siêu hình” (Métaphysique-fiction), bởi ông thiên về một lối viết thô mộc và tự nhiên.

Nói chung, giới phê bình Pháp đều cho rằng, J.M. Le Clézio viết theo phong cách hư cấu giả tưởng, huyền ảo và thuần phác, nhưng “ẩn chứa những cơn lũ bên trong”.
Tác phẩm của Le Clézio là một bản nhạc thiên nhiên đầy quyến rũ. Rời xa thế giới vật chất - phù hoa, hư ảo, ngôn ngữ của ông giản dị và hồn nhiên như trong thế giới của một câu chuyện cổ tích. Nó mời gọi người đọc chìm đắm trong sự yên tĩnh, sự mơ mộng và thi vị, trong sự trầm ngâm đắm say. Văn chương của ông, vì thế là một thứ văn chương thoát ra và tìm kiếm lại một kho tàng ẩn dấu của thời gian đã mất, đã vụn tan giữa sa mạc vô biên.
Jean Marie Gustave Le Clézio là sự kết tinh của tinh thần sáng tạo nghệ thuật, của nỗi đau kiếm tìm các giá trị của con người. Tác phẩm của ông là niềm suy tư day dứt của con người đang sống trong xã hội văn minh hậu hiện đại.

Không phải ngay từ bây giờ, khi J.M. Le Clézio đoạt giải Nobel, báo giới và các nhà phê bình mới ca ngợi ông. Vào năm 1994, độc giả Pháp đã bình chọn ông là nhà văn đương đại lớn nhất nước Pháp. Hiện nay, tác phẩm của ông cũng đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới.
Và ở Việt ,
tôi tin rằng, J.M. Le Clézio sẽ được chúng ta yêu mến, bởi phong cách nghệ thuật thuần phác và tư tưởng nhân đạo của ông phù hợp với tinh thần của người Việt (4).
T.H.S

(nguồn: TCSH số 237 - 11 - 2008)

 



-----------
(1) http://nobelprize.org
(2) http://pagesperso-orange.fr
(3) http:/www.multi.fi
(4) Thực ra thì Le Clézio cũng không hoàn toàn xa lạ với bạn đọc Việt . Cuốn tiểu thuyết Sa mạc (Désert), đã có mặt ở Việt qua bản dịch của Huỳnh Phan Anh (1997, NXb Hội Nhà văn).

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.