Giấc mơ cây đàn và ngọn nến

09:57 04/11/2008
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)


Trong tiến trình phát triển của văn học phải kể đến thế hệ xuất hiện sau chiến tranh, nhất là từ thời kỳ đổi mới 20 năm trở lại. Họ đến với thơ bằng hành trang đầy đủ về học vấn, bối cảnh xã hội cũng rộng mở thuận lợi hơn trước.
Trần Kim Hoa một trong số đại biểu ấy.
Chị đã có ba tập thơ: Nơi em về (1990), Quá khứ chân thành (1998), Lối tầm xuân (2003). Hoạ mi năm ngoái /tác phẩm thứ tư mới nhất, được viết từ cuối năm 2003 đến cuối năm 2005, hiện rõ gương mặt Trần Kim Hoa trong lữ trình thơ cùng thế hệ:
ta thấy rõ mình hơn mỗi tảng sáng
ta thấy rõ mình hơn mỗi chiều về
như thuỷ tiên trổ thêm rễ mới
                                                (Buổi chiều những năm 2000)
Đây là cái nhìn giao cảm của thế giới nội tâm, hiểu sự mong manh của con người trong thế giới rộng lớn đang chuyển hoá, lời cất lên có nước mắt/mắt nhìn đầy nước mắt.

Thế giới đời sống vốn sắp đặt theo quy luật riêng mà Trần Kim Hoa như người khách đến muộn. Con mắt chị nửa phần ngơ ngác, nửa phần thẫn thờ nhìn nó. Ngơ ngác vì cuộc đời này tiềm ẩn bao điều mới lạ, trong trẻo như những hạt thóc vàng mười rực sáng / trổ những lá mầm bé xíu; thẫn thờ vì cuộc đời cũng nghiệt ngã, chua chát: búi tóc ngày một lỏng / cái nhìn ngày một xa, không thể không dằn vặt, u hoài: đêm đêm trở mình nghe cây thở / nghe bậc cửa chạm vào bóng tối. Bởi vậy chị muốn khám phá thế giới, để được sống như đời sống/ lược thời gian chải tóc mỗi ngày, đó là sự dấn thân, sự chấp nhận của trái tim đa cảm.
Người nghệ sĩ chân chính bao giờ cũng thấy mình mang nợ với cuộc sống, con người, nợ từng chiếc bóng đổ xuống ngày thường, nợ phía cánh rừng nơi có những chiếc móng chân không mọc lại, nơi người đàn ông của ta một sớm ra đi gương mặt còn búng sữa mãi chẳng thấy trở về. Và, khát vọng thường trực trong họ, càng đa cảm càng khát vọng, đó cũng là nhân tố hối thúc sáng tạo:
miên man dấu tay người để lại
hơi thở người như mới hôm qua
thôi đừng gục mặt xuống những phím buồn chìm nghỉm
nốt cô đơn đừng nhấn nhá nữa mà

bao nhiêu thắc thỏm dồn về đây hết
dòng sáp nức nở sắp chảy, đắm đuối chảy
một ngọn sáng duy nhất
lắc lư như muốn tắt mà không tắt nổi

Sáng tạo có cốt cách là sáng tạo được bật lên từ bản ngã sống còn của nghệ thuật, bật lên từ những tố chất đích thực. Nói quá đi cốt cách giời bắt làm thi sĩ. Đấy là cách nói sang trọng, thực ra tố chất kia đều khởi nguồn từ sự nhào luyện không mệt mỏi của cảm xúc và tư duy. Mỗi khi nhà thơ ngụp lặn vào cõi thiêng ấy, thơ xuất hiện ngoài ý muốn, câu chữ có thần phép. Mô tả cây đàn và ngọn nến theo kiểu Trần Kim Hoa ở giờ khắc tận cùng đã làm nên thi pháp của chị, tuồng như không mới mà lại rất mới. Câu chữ cứ chảy đi tự nhiên, người đọc cảm nhận bằng lối cảm nhận riêng mình, nói theo lý luận mỹ học gọi là đồng sáng tạo; nói theo thiển ý của tôi, chị đã mê hoặc dẫn dắt người đọc bước vào ngôi - nhà - hư - ảo, ẩn náu bao điều kỳ diệu:
mờ nhoà những dáng nét
uốn cong những đường thẳng
bằng chút sức lực cuối cùng
không hiểu lấy từ đâu ra

và im lặng
và bóng đêm
không cho được nữa
không nhận được nữa
                                                (Cây đàn và ngọn nến)
Bài thơ kết thúc mà ý tưởng như dòng sông trôi mãi trong một không gian thời gian bí ẩn lạ lùng.

Hạnh phúc người đọc được dừng lại nhiều lần ở mỗi câu, mỗi đoạn thơ, dừng lại những chỗ chưa nhận biết, chưa thể hiểu. Đấy là điều đáng trọng, khi nhận ra, hiểu ra càng yêu mến kính trọng hơn. Không phải lúc nào cũng vội vàng gán cho thơ hiểm hóc, tắc tị, chẳng qua vì ta chưa tìm được cái chìa khoá vạn năng để vào được ngôi - nhà - hư - ảo thi nhân.
Ngôi - nhà - hư - ảo của Trần Kim Hoa bộn bề ý tưởng, mặc dầu tác giả của nó đã xếp sắp làm ba phần: Gạo trắng nước trong, Giấc mơ mặt trời, Mỗi sớm mây qua, ngụ ý chưng diện theo trình tự nhất định để độc giả khỏi lạc lối. Nhưng  độc giả cũng đủ kiểu, đủ dạng tuỳ sở thích và cái tạng thưởng thức chiêm ngưỡng nữa. Riêng tôi, ý tưởng tập trung nhất trong thơ Trần Kim Hoa được xoay quanh trục quay về một khái niệm SỐNG. SỐNG được nghệ thuật hoá làm nên dòng nhựa nguyên sinh nuôi cây thơ xanh tốt. Ở đấy ẩn náu trái tim thơ như sợi tơ đàn, gạch nối thanh âm giữa hôm qua và hôm nay, giữa hạnh phúc và cô đơn, giữa mơ và thực. Có lúc trái tim thơ yếu đuối tưởng chừng tan chảy: khép cánh miên miên buồn/tiếng hót màu hổ phách/có một lối về mảnh như sợi khói (Hoạ mi).

Nhưng cuộc sống luôn luôn chuyển động, không đứng yên.
Hôm qua: đêm đêm những mái tranh không ngủ/vọng thinh không những tiếng nói mơ hồ/nửa trời bên kia vầng dương thao thức/bời bời gió trổ lòng tôi (Hướng dương). Quá khứ vẫn trổ cành qua hiện tại: tháng chạp vườn sương lá dong xanh thắc thỏm/gừng biết cay con gái biết thì (Tháng chạp). Và nở hoa cho ngày mai: ngày mai con ta đến lớp cặp kính cận ngay ngắn trên sống mũi/vẻ trịnh trọng thơ ngây lạ lẫm/bao nhiêu ngày mai, bao nhiêu cánh cửa đóng chặt được mở ra (Tỉnh táo).
Cuộc sống như cơn lốc và con người sẽ vẫn cảm thấy cuốn theo nó, tắm cùng ánh sáng và bóng tối. Hạnh phúc như tia chớp vụt hiện: một đêm/ mây thật trắng/ mây lật những đường cày thơm phức/ lũ cua đồng líu ríu đợi người ngoan (Một đêm gió lạnh về). Con người tự vấn và không thể không nghi hoặc, mệt mỏi trong cái guồng quay không giới hạn: người đã sống thế nào/đã dằn vặt ra sao/con đường u tối đã phân định (Một sớm mai). Nhiều lúc nhà thơ cảm thấy sự cô đơn tuyệt đối, bao phủ lên chiếc bóng nhỏ nhoi giữa cõi nhân sinh: phút khóc một mình cay đắng chỉ mình hay/ những con chữ hiện lên đơn độc (Ba khổ thơ buồn). Và thất vọng như giọt lệ khô cùng ngày tháng: đêm, lại đêm/ vạn lý tình di thiên cổ/trường thành bất tận/xoá dấu em rồi (Tình yêu biết có còn chăng).

Có điều lạ trong khi hiện thực tồn tại như chiếc bóng phản chiếu, dưới con mắt nhà thơ cuộc sống lại đầy kỳ ảo. Mỗi bài thơ trong Hoạ mi năm ngoái như một giấc mơ. Một giấc mơ đã qua và một giấc mơ đang tới. P.Reverdy cho rằng: “Cuộc đời của nhà thơ là một giấc mơ bất tận - mơ hiện thực. Giấc mơ của nhà thơ là một giả thiết về cuộc sống, cũng như giả thiết của nhà bác học là một giấc mơ khoa học”. Giấc mơ, một trạng thái nằm ngoài hiện thực, có thể nói đối lập với hiện thực. Nhưng trong thơ biểu cảm giấc mơ lại đồng nhất với hiện thực, tạo ra thứ hiện thực huyền ảo. Chẳng hạn như khi nói đến sự trải nghiệm: bây giờ sao khó cất lời / nói khác điều mình nghĩ chỉ dối người/nghĩ khác điều mình có chỉ dối mình (Giá như); sự hoá thân: hình như có lúc em làm gì cũng sai / hình như nhiều khi em như người khác (Trong mơ). Và sự tái ngộ, trở về với chính mình: Ngọn gió rong chơi qua bao huyền sắc/đậu xuống ngẫm nghĩ nơi những ngón tay gầy xanh của em (Điệu thức tháng tư).

Giấc mơ đem tới người đọc cái cảm giác siêu hình, thoát ra khỏi hình thức ngôn từ, chỉ có thể nhận biết, sở hữu qua con đường xúc cảm tác động vào tâm trí. Với Trần Kim Hoa tình yêu cũng là giấc mơ:
rồi lại trở về nơi cất bước ra đi
rồi lại buồn vui đau khổ như chưa bao giờ như vậy
những giấc trinh nguyên
                                                (Mỗi sớm mây qua)
Giấc mơ con người rồi sẽ tan khi mặt trời lên. Nhưng giấc mơ thơ còn đấy, nó sống mãi trong tâm hồn người đọc, bởi sau những dòng chữ kia là tình cảm, thái độ người tạo ra nó.

Trần Kim Hoa không chủ ý lấy thủ pháp nghệ thuật làm cơ sở sáng tạo. Hình thức thơ chị là hình thức lẫy ra từ tâm trạng. Dẫu chị muốn biểu đạt thơ mình bằng lối giản dị, chân thật để người đọc dễ dàng tiếp nhận, nhưng sự sáng tạo vượt ngoài ý định chủ quan không theo một quy luật, một khuôn phép nào cả. Chính sự bừng thức của cảm xúc và tư duy lôi kéo ngôn ngữ, bắt ngôn ngữ đi theo lập trình khác, ngay cả chủ thể sáng tạo cũng không kiểm soát được nó. Mỗi bài thơ trong Hoạ mi năm ngoái là một sự vận động của điệu thức cá biệt, không hàm ngôn, nhưng không dễ nhận biết. Cái mới của thơ Trần Kim Hoa không lao vào cuộc tìm kiếm chữ nghĩa, tạo từ. Ở chị, ngôn ngữ được đặt đúng vị trí thì câu thơ cất cánh, có sức hấp dẫn. Do vậy dưới hình thức nào, câu chữ vẫn biến thành sức mạnh cảm hoá. Nói với mùa đông Ngậm ngùi, hai bài thơ thể lục bát dễ đọc nhất, vậy mà câu kết mỗi bài chữ nghĩa thì ở thế tĩnh mà tình cảm tư tưởng lại ở thế mở:
mặc lòng bóng nước mây trôi
mùa đông cùng với một người ra đi
và:
sông sâu bồi lở một mình
đồng trăng quạnh gió, sân đình ngói phơi...

Có cái gì xa thẳm, quạnh hiu. Cảnh vật thiên nhiên nhập vào hồn người, hay hồn người nhập vào cảnh vật thiên nhiên, thật khó phân định. Nhưng rõ ràng làm ta day dứt, bâng lâng như chính mình vừa chia xa một con người, để buột khỏi ảnh hình nào đó trong trời đất. Ngược lại ở các bài thơ kiểu văn xuôi, như Trái đất đang nóng lên, câu thơ chẳng mượt mềm chút nào: Người với người đang mỏng đi, cỏ cây cũng đang mỏng đi, mây trắng hơn và đất đai mỗi ngày mỗi bạc, lại day dứt ám ảnh ở chiều khác, làm ta giật mình bởi giữa thế giới văn minh hiện đại này đang hiện diện: Người không hình bóng.
Trái tim thơ Trần Kim Hoa đã nhiều khi yên lặng khóc trong lòng tay, nhưng không vì thế mà cam lòng chìm cùng số phận đa đoan con người:
trong bộn bề tôi trống rỗng tôi đằng đẵng trôi
chen vào giọng nói tôi, cái nhìn tôi, nhịp đập mông lung của tôi
nghèn nghẹn động mạch đỏ

như lúa chín vãi cánh đồng bão
nửa thứ hai của tôi, sinh đôi cùng tôi, cuộc đời ẩn khuất của tôi
gom tôi về, hong khô tôi, sàng sảy tôi, cất tôi trong chum kín
mặc tháng ba ngày tám
dứt khoát đưa tôi tới mùa màng
Vậy đấy, trong âm vang hoạ mi năm ngoái kia, nó còn mang sức mạnh vô hình của tiếng nói thăm thẳm từ một trái tim ương bướng vực con người đứng dậy.
Cửa biển Nhật Lệ, mùa bão
14-11-2006
                                                H.V.T

(nguồn: TCSH số 216 - 02 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.