NGUYỄN THANH TRUYỀN
Ấn tượng của tôi về Nguyên Hào bắt đầu từ một đêm thơ gần 20 năm trước. Lần đầu tiên đọc thơ trước đám đông, dáng vẻ vừa bối rối vừa tự tin, anh diễn giải và đọc bài “Rượu thuốc”: “Ngâm ly rượu trong/ Thành ly rượu đục/ Đắng tan vào lòng/ Ngọt trong lời chúc”.
Đó là ấn tượng về thơ của một người thâm trầm, khá sâu sắc. Từ sau lần ấy, cứ tưởng anh không mấy mặn mà với thơ. Nhưng, đúng như quy luật sáng tạo, người chẳng bỏ nổi thơ mà thơ cũng chẳng bỏ người, trong cõi chữ, Nguyên Hào vẫn nuôi “giấc mơ bay” từ “phận chữ”.
Tập Giấc mơ bay (Nxb. Hội Nhà văn, 2020) ghi dấu chặng đường sáng tạo đã qua của Nguyên Hào. Tập thơ là nơi gói nén/mở ra những cảm xúc, chiêm nghiệm về chữ, về thơ, về mẹ cha, về tình yêu, về quê hương bản quán, về nhân sinh.
Sự nghiêm túc với thơ của Nguyên Hào bắt đầu bằng những suy tư về phận chữ. Phàm là người có nợ với thi ca, ai cũng suy tư về chữ. Bằng cái nhìn của một thi sĩ, Nguyên Hào thấy cõi chữ như cõi nhân gian, chữ như là chúng sinh, phận chữ cũng như thân phận chúng sinh. Đây là liên tưởng phảng phất màu thiền nhưng đẫm vị đời. Chữ trong đời sống là chữ của ngày thường, là tài sản dùng chung của tất thảy mọi lớp người, ngồn ngộn “vô hướng”. Chữ trên trang viết cũng “lầm lũi trong chuyến di cư vô hướng/ trước thời khắc chịu ngòi bút/ xuyên treo”; chữ không tự quyết định được số phận, luôn lệ thuộc vào “ai đó”, lệ thuộc vào kẻ ghép/dùng chữ. Cho nên, phận chữ cũng “đa hình hài, tên gọi”. Phận chữ tội nghiệp, bởi ít khi được là chính mình, thường chữ chỉ là phương tiện trong tay kẻ viết! Kẻ viết háo danh thì dùng chữ “để tụng ca chính họ”. Kẻ viết nhỏ nhen, đê hèn thì dùng chữ để “hạ danh một vài người”. Tâm niệm chữ là sinh ngữ, là những sinh linh nên Nguyên Hào trăn trở: “Nhân loại nghìn vạn năm sau/ ai người khai sáng hồn chữ?” (Phận chữ). Vào cõi chữ, cõi viết như vào mê lộ, không chừng kẻ viết chỉ nhặt và phơi lên trang viết toàn xác chữ, nếu quên mất “Những con chữ chờ phóng sinh…” (Mê lộ chữ). Với Nguyên Hào, kẻ viết đích thực là kẻ ký thác tâm hồn mình, ký thác thân phận mình vào chữ, “khai sáng hồn chữ”, tạo sinh cái tinh túy tự nhiên của chữ.
Từ nhận thức và tâm niệm về chữ, Nguyên Hào ấp ủ giấc mơ dựng nên một thế giới riêng của chữ và vượt ra ngoài chữ. Tự phác họa đường thơ của mình, Nguyên Hào chia làm hai giai đoạn: “trước mơ bay” (thơ tuổi xanh) và “giấc mơ bay”. Giấc mơ ấy có từ thời “Tuổi xanh tôi chở câu thơ cõi còm”, và không ít lần thi sĩ giật mình nhận ra mình lạc vào “mê lộ chữ”, “Câu chưa chạm đích câu về chốn nao?”, nhưng tâm tư nặng nợ với thơ không thôi khắc khoải, dù cho “Cũ mình dưới bóng tiền nhân” vẫn “Buông câu lục bát tần ngần nẻo mơ” (Nỗi niềm lục bát). Khi đối diện nhiều với thơ, thi sĩ bừng ngộ, nhận ra cần mình thay đổi, cần vượt thoát “Giọng thơ thuở ấy còn vang/ Chưa buông bỏ/ chút đa mang…/ nặng mình!// Bút nghiêng vài độ vô minh/ Câu thơ còm chữ/ vô hình trước Tâm” (Trước mơ bay). Dùng hình ảnh con chim non tập bay, Nguyên Hào liên tưởng về giấc mơ của chính mình bay trong cõi chữ: “Chú chim non/ bay bay/ sau nhiều ngày vỗ cánh// Dưới kia/ Chiếc tổ ấm êm/ bao lần từng là miệng vực/ trước những cú tập nhảy bất thành// Ôi lằn ranh/ giữa thực và mơ…”. Phải mất “nhiều ngày vỗ cánh”, vượt lên chính mình, vượt lên trở ngại, vượt những thử thách và nguy cơ, dám thực hiện “những cú tập nhảy bất thành” để rời bỏ chiếc tổ ấm êm, chú chim non mới có thể “bay bay”… Kẻ viết nhìn chim bay, chiêm ngẫm về lằn ranh mong manh “giữa thực và mơ”, giữa an trú và bay cao, giữa cầu toàn và đột khởi, giữa yên phận và trở trăn, giữa mòn cũ và sáng tạo: “Trên kia/ trước tầm nhìn tôi hạn định/ chú chim non như một chấm nhỏ/ vút cao/ thỏa chí/ giấc mơ chạm chân trời/ không lưới giăng” (Giấc mơ bay). Cánh chim bay đã đánh thức giấc mơ bay của chữ. Những suy tư của Nguyên Hào về thơ đã bộc lộ khát vọng sáng tạo của một người thơ kiệm lời.
Bay cùng chữ, như nhiều người viết khác, thơ Nguyên Hào cũng bắt đầu bằng việc chuyển tải những vang hưởng từ những cảnh sống quen thuộc, đặc biệt là những vang hưởng từ ký ức. Có những nỗi quê rưng rưng, thiết tha xúc cảm: “Nhớ những con đường gót trần em qua/ Yêu những dòng sông trong vời con nước/ Muôn ngõ hồn đậm bóng mẹ cha” (Hà Tĩnh mình). Có những niềm thổn thức, “mòn ký ức” vẫn không nguôi nhớ tiếc cái tình thơ lỡ làng mà trong trẻo tinh khôi: “Còn trong trang viết ngày thơ/ cành xoan ép vội/ chưa khô lời thề” (Khắc khoải tháng ba). Để rồi, “Tôi giờ ngồi vịn giọng đàn/ phổ câu lục bát/ âm lan điệu buồn” (Lục bát tình) hay “Cõi tình/ chưa hết ngu ngơ/ Chiều nay/ giăng mấy câu thơ lạc vần…” (Chiều, rượu và thơ). Tuy nhiên, những bài thơ đáng đọc nhất của Nguyên Hào không phải là những bài nghiêng về trực cảm như vừa nhắc.
Nguyên Hào vốn ưa trầm mặc, suy tưởng nên thơ anh thường gây được ấn tượng khi anh hiển lộ nguyên hình cái “tạng” của mình trong cõi chữ - nghĩa là khi rung động chuyển thành suy tư, cảm xúc hóa thành chiêm nghiệm, đa ngôn náu mình vào vô ngôn, chất đời lắng đọng. Khi Nguyên Hào dụng tâm nén chữ, nén ý, gửi ý tứ vào thi ảnh, nói bằng thi ảnh thì có thể anh có thơ hay. Cõi chữ riêng của Nguyên Hào được thiết lập theo hướng ấy. Ta gặp ở “Ký ức biển” những ký ức khúc xạ qua chiêm ngẫm, đẹp đến ngỡ ngàng, cho thấy quê hương đã hóa thành máu thịt, thành linh hồn người viết: “Cuống rốn tôi được sát trùng bằng nước biển/ Tấm lưới cha đan hứng tiếng khóc/ sự giao hòa đầu tiên của sinh linh/ với biển mặn mòi.// …Đôi khi/ cơn thủy triều chụp lấy tôi/ Trong giấc ngủ chập chờn tấm màn như tấm lưới/ chiếc giường như chiếc thuyền/ Ký ức tiền định, thiên di…”. Ta gặp ở “Rubik” nhịp lục bát trộn lẫn hài hòa tư duy và xúc cảm, tưởng tưng tửng bất ngờ mà sâu lắng, dư ba: “Đời xoay ta nhuốm khóc cười/ 1 xanh hy vọng lấp 10 khổ đau// Em xoay tình/ hướng độc màu/ lọc 2 tim đỏ/ trao nhau trắng ngà// Bao lần ngồi tự xoay ta/ Thân buông…/ dần hết xót xa phận người”. Ta gặp ở “Tháp Pisa” niềm vui sáng tạo của thi sĩ qua cái nhún vai rất Nguyên Hào khi nắm bắt được một tứ thơ đột khởi, như đồng cảm với ngọn tháp vô tri khi ngộ ra một ứng xử an nhiên của tháp với cõi người: “Kết một khối tròn/ ngại cắm sâu - đau mình cát/ năng lượng tâm cân bằng trọng lực/ chưa nhờ ai ghé sức/ bóng đổ mòn thời gian// Trước tầm nhìn du khách/ ngạo nghễ/ Pisa chỉ là nhún vai/ nghiêng mình”. Ta gặp ở Những cơn mê bao suy cảm trùng điệp, chồng lấn có giá trị lay thức thiên lương:“Những cơn mê/níu tầm nhìn/uốn cong hoài niệm//Những cơn mê/ve vuốt nơ-ron thần kinh/khúc xạ tư duy//Những cơn mê/nhào nặn hiện sinh/bôi trơn cảm giác//Những cơn mê/ từ cái đầu rất tỉnh/ và tim đang ngủ vùi”. Ở Lòng biển, thoạt trông ngôn từ như miêu tả ngoại cảnh mà kỳ thực đã mang chở trọn vẹn thế giới nội cảm của nhà thơ, nhờ sự ký thác tinh tế tình yêu thiên nhiên và khát vọng sống cao đẹp: “Vai trần cõng thuyền xuôi ngược/ Nhấp nhô xiêu tấm lưng còng// Ngàn năm chuốt từng sợi sóng/ Dệt thành cát trắng mênh mông// Hóa hơi tan thành thinh vắng/ Gửi mây một chút mặn mòi// Muốn kết thành băng lóng lánh/ Tặng trời một tấm gương soi”. Cùng hấp lực, cùng đem lại cảm giác thú vị cho người đọc như những bài thơ vừa điểm qua, còn có thể kể đến những bài thơ ngắn của Nguyên Hào - những bài thơ tối giản, vừa cô đặc vừa gợi mở: “Tôi là giọt lớn/ vơi cô đơn cùng ai?” (Tự sự biển), “Lắng thêm tiếng chuông chùa/ Tâm đổ bao hồi chuông” (Đồng vọng), “Trẻ ngọng nghịu tập nói/ Người lớn thoải mái phát ngôn/ Ai sai nhiều?” (Lập ngôn), “Muốn rực rỡ/ hay anh đang tự đốt mình?” (Gửi mặt trời),…
Khi “Đối diện thơ”, khát vọng của Nguyên Hào là khẳng định dấu ấn có ý nghĩa của mình, “góp thêm tiếng lòng vào nhân loại/ vẫn còn chút Ta”. Với thi tập Giấc mơ bay, Nguyên Hào có được niềm vui sáng tạo ấy bởi anh dần định hình một lối viết và chính thức trình làng những tứ thơ đem lại nhiều cảm nhận, suy tư mới mẻ cho người đọc, làm thay đổi cách nhìn và cách ứng xử của người đọc về thế giới chúng ta đang sống. Tôn thờ những giá trị cao đẹp, Nguyên Hào có lực cảm xúc dồi dào, nhãn quan nghệ thuật nhạy bén và luôn nung nấu “khai sáng hồn chữ”…
N.T.T
(SHSDB42/09-2021)
PHAN HỒNG MINH «Long thành cầm giả ca» là bài thơ mở đầu phần «Bắc hành tạp lục» trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du (1). Bài thơ ghi lại mối cảm thương vô hạn của nhà thơ với cuộc đời «dâu bể» của một ca nữ tài hoa đất Long thành mà ông được tận mắt chứng kiến.
THĂNG LONG (Nhân đọc Vũ điệu không vần - Tứ khúc - và những tiểu luận khác của Khế Iêm, Nxb Văn học, 2011)
KHÚC CẦM Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản năm 1942 là cuốn sách khám phá và đánh giá đầu tiên đối với phong trào Thơ Mới.
LÊ THĂNG LONG Sự ra đời của cấu trúc luận, giải cấu trúc đã kéo theo sự đổ vỡ của những quan niệm truyền thống mang tính phổ quát về nghệ thuật sáng tạo khởi thủy từ Platon.
TRẦN THỊ NGỌC LAN (Đọc tập thơ Ngược xuôi thế sự, Nxb Văn học, 2011)
THÁI KIM LAN Tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu Vừa qua tôi lục giấy tờ cũ, tình cờ thấy một trang giấy có thủ bút của Thầy Thích Thiện Châu (cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu), một bài thơ. Cảm động quá. Bài thơ này Thầy viết sau khi khoá Thiền mùa hè năm 1990 chấm dứt và là lần cuối cùng Thầy sang giảng khoá Thiền tại Muenchen.
THI THOẠI Nhân 90 năm ngày mất Phan Kế Bính (1921– 2011) Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, người làng Thụy Khuê (làng Bưởi), huyện Hoàng Long, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội, thọ 46 tuổi (1875 - 1921).
MIÊN DI Không tìm thấy, và cũng đừng nên tìm ở tập thơ này một điều gì đã từng được nhiều người đồng vọng trước đây. Nó là những mảnh tiểu tự sự, những cái nhìn cô lẻ, biệt dị từ đáy thân phận và đôi khi tàn nhẫn.
HOÀNG DIỆP LẠC (Đọc tập “Thơ tự chọn” của Nguyên Quân, Nhà xuất bản Văn học, 8-2011)
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”…
NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.
ĐÀO ĐỨC TUẤN Lang thang giữa hè Huế nồng nã. Bỗng nhận tin của Minh Tự: thêm một cuốn sách của Nguyễn Xuân Hoàng vừa được bạn bè góp in. Đầy đặn 360 trang sách với chân dung “người buồn trước tuổi” đằm đặm trên bìa đen trắng.
Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên”, Nxb Thuận Hóa, tháng 5-2011)
KHÁNH PHƯƠNG Nguyễn Đặng Mừng đến với nghề viết một cách tự nhiên, mà cũng thầm lặng như cách người ta theo đuổi một lý tưởng. Ông vốn là học trò lớp ban C (ban văn chương) những khóa gần cuối cùng của trường Trung học Nguyễn Hoàng, trường công lập duy nhất và cũng danh tiếng nhất tỉnh Quảng Trị trước 1975.
…Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein…
L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.
Anh không thấy thời gian trôi thời gian ở trong máu, không lời ẩn mình trong khóe mắt làn môi trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời về kiếp người ngắn ngủi.(T.Đ.D)
HOÀNG THỤY ANH Phan Ngọc đã từng nói: Thơ vốn dĩ có cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này.