LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc Chậm hơn sự dừng lại của Trần Tuấn, Nxb. Hội Nhà văn, 2017)
“Nhà thơ đang làm việc”, đó là hàng chữ luôn được treo trước cổng tư thất của Saint-Pol- Roux khi thĩ sĩ này đi ngủ. André Breton đã kể với mọi người như thế trong Tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực. Ở đây, chúng ta ý thức được vai trò của giấc mơ trong việc thực hành nghệ thuật là vô cùng to lớn. Những giấc mơ đan dệt vào nhau là suối nguồn bất tận của bất cứ một kẻ nào biết mơ mộng. Giấc mơ giúp thi sĩ giải phóng được những xung năng mà khi tỉnh anh ta không thể nào thực hiện được. Giấc mơ nối dài biên giới, tạo ra những luật chơi khác biệt mà ở đó, nhà thơ vừa là người tạo ra luật chơi, vừa là người can dự trò chơi, cũng đồng thời là kẻ phá bỏ luật chơi.
“Chậm hơn sự dừng lại” là câu thơ mở đầu để tôi can dự vào những giấc mơ đầy tính huyễn ma của Trần Tuấn. Nhận thức được sự nguy hại của trí khôn, của sự tỉnh táo, của lý tính khô khan khi đi vào giấc mơ của kẻ khác nên trước thế giới đầy ám ảnh của thi sĩ này, để khỏi lạc đường, tôi tự để vô thức xui khiến mình viết nên những lời không lấy gì làm chắc chắn cho sự thông hiểu. Bởi không ai dám chắc mình đã nắm được giấc mơ của tha nhân. Ngay cả đại đao phân tâm học Sigmund Freud cũng không bao giờ là ngoại lệ.
Với Trần Tuấn thì chủ thể của luật chơi, chủ thể trữ tình cũng được sinh ra từ một giấc mơ:
“nằm trong cơn mơ
tôi co một chân
định bước qua vũng tối
rồi mờ nhẹ dần
chân bước
sang một cơn mơ khác
vũng tối
im lìm gương mặt
mang hình dấu chân
thiếu một đường xương chéo
những bước những bước những
bước
mất hút
tôi có sợ tôi không?”
Trần Tuấn mơ, mơ không là trốn chạy mà mơ là để tự vấn, tự tìm mình, tìm khuôn mặt của mình trong thế giới mà mỗi người đang săn đuổi cho mình những màn diễn hoàn hảo nhất. Những giấc mơ của Trần Tuấn dĩ nhiên luôn được sinh ra từ trong bóng tối, bóng tối nối tiếp bóng tối để kéo những giấc mơ nối tiếp những giấc mơ. Thi sĩ đi từ giấc mơ này sang giấc mơ khác như một trò đuổi bắt chính mình, một trò đuổi bắt không có hồi kết. Những giấc mơ này như một thước phim siêu thực đen trắng. Nhà thơ được sinh ra từ một giấc mơ, lưu trú trong một giấc mơ rồi rồi bước sang đuổi bắt chính mình trong một giấc mơ khác cho tới khi tất cả mất hút vào đêm.
“cái chết thành con mồi của cuộc săn giấc mơ
hay giấc mơ - con mồi của cuộc săn cái chết
Không như các thi sĩ lãng mạn xa xưa, đi vào giấc mơ là để thêu dệt những chân trời mộng tưởng tươi sáng, Trần Tuấn không trốn chạy thực tại đớn hèn của cuộc sống bằng cách tự thêu cho mình những chân trời đầy ánh sao, anh bấu víu vào giấc mơ như kẻ điên loạn bấu víu vào đêm. Và đêm thì đen đặc, không định.
“những đêm thằng bé mơ
trên con thuyền mù u
trôi tuyệt mù
không đêm thu…”
Hầu hết trong tập thơ này, từ ý tưởng, hình ảnh cho tới ngôn ngữ… đều được sinh ra từ trong những giấc mơ, và đôi khi chúng ta có cảm giác rằng nhà thơ không làm thơ mà chỉ là kẻ ghi lại những giấc mơ của mình. Sự kết hợp những điều nghịch lý lại với nhau, cho những hình ảnh dường như khác xa nhau tương tác với nhau để tạo nên sự bất ngờ, đả phá nhận thức bằng lý tính, thống nhất giữa những điều không thể thống nhất; chính lối viết đó tạo ra một không gian huyền ảo, ma mị, siêu thực chồng lớp lên nhau.
“trà đã pha vào ấm
tôi lơ mơ nằm chờ
thiếp đi
thấy mình được pha
được rót
vào cái chén cũ
nghi nghút khói
hương vị thân thể
cứ thế
đang ngồi uống tôi”
Phải chăng, tất cả chúng ta cũng đang sống trong những giấc mơ của kẻ khác, chúng ta được sinh ra từ giấc mơ của kẻ khác và chính trong những giấc mơ của chúng ta; những kẻ khác cũng đang lưu trú, cũng đang chứa chấp những giấc mơ về những kẻ được sinh ra từ giấc mơ rồi ngấu nghiến ngay chính những giấc mơ vừa sinh ra mình. Điều này làm tôi nhớ tới tư tưởng của Jorge Francisco Isidoro Luis Borges, một thi sĩ mù lòa mãi mê đi săn giấc mơ rồi chết một cách tưng bừng trong bóng tối.
Sự chết/ ám ảnh về cái chết… đã là một nguồn năng lượng vô biên cho thi sĩ xưa nay. Schopenhauer trong “Siêu hình tình yêu, siêu hình sự chết” cho rằng cái chết là vị thần gợi hứng và vị thần hướng dẫn của triết học. Từ đó có thể thấy thiếu sự truy vấn về cái chết, thiếu sự suy tư về cái chết, thiếu những ám ảnh về cái chết thì sự mơ mộng sẽ nghèo nàn biết bao nhiêu. Thi sĩ là loài mơ mộng và cái chết đã mở ra cho những kẻ mơ mộng này một thế giới để say đắm, để ngụp lặn, để kiếm tìm, bởi thế giới của cái chết là thế giới chưa được nhìn thấy, và thế giới chưa được nhìn thấy chính là thế giới vẫy gọi thi sĩ mãnh liệt nhất. Cái chết trở thành hạt nhân trong thi phẩm này của Trần Tuấn. Chúng ta bắt gặp vô vàn những cái chết. Cái chết đến từ những vết thương của tha nhân đem lại, cái chết đến từ những va đập của nhà thơ trước thực tại đớn hèn đổ nát, cái chết đến từ sự thật trần trụi, cái chết đến từ những giấc mơ đang hấp hối… Và tựu chung, trong thơ Trần Tuấn, cái chết đến từ muôn nẻo, nhưng cội nguồn chung của cái chết là khởi từ bi kịch. Bi kịch sinh ra cái chết, và dĩ nhiên bi kịch ở đây lại là một danh từ cao quý. Chúng ta sẽ không thể sống sót nếu thiếu bi kịch như chính những suy tư của Arian Poole.
Cái chết từ đại dương: “tôi đưa anh trên con đò máu/ qua đại dương/ vớt những xác người”; cái chết từ những bàn tay: “mọc lên loài hoa vân tay/ từ bàn tay của những xác chết”; cái chết của tuổi thơ bé mọn: “nó thấy những đứa bé chết non từ khi ông bà nội nó chưa sinh ra…”; cái chết của đám đông: “những đám đông mù lòa hò hét/ bủa lưới vây lòng hồ thối ngạt/ qua rừng đạn, dùi cui/ chết chết chết…”. Cái chết của chính sự chết: “cái chết thành con mồi của cuộc săn giấc mơ/ hay giấc mơ - con mồi của cuộc săn cái chết/ cái chết xanh nhung…
Lưu trú trong thế giới thậm phồn hôm nay, bi kịch nối tiếp bi kịch, cái chết nối tiếp cái chết, có những cái chết là tiền đề cho sự tái sinh nhưng cũng có những cái chết tuyệt mù nơi huyệt mộ. Trần Tuấn là một thi sĩ dễ khóc, anh thuộc nòi tình vì thế hơn ai hết anh rất giàu có về những vết đâm trên thân thể, trong tim gan anh và dĩ nhiên là trong thơ anh nữa. Cái chết trong thơ Trần Tuấn không hề tĩnh lặng, đó là những cái chết gào rú được chuyển tải bằng những tứ thơ mạnh, hình ảnh nhịp điệu thơ đều chuyển động không ngừng như thể chúng ta đang đứng trước những bức tranh vị lai khiêu khích, đả phá sự cố định, nhà thơ muốn ngợi ca tính chuyển động hướng tới tinh thần hiện đại khi hai bàn tay nhà thơ bíu chặt vào thi thể đã đến hồi phân hủy của cái chết. Dù tồn tại trong không gian nào đi nữa thì tôi nghĩ rằng thơ Trần Tuấn đang mang sức mạnh của những kẻ ngoại biên. Ngoại biên bởi sự khác biệt. Ngoại biên trong tư tưởng, trong bút pháp. Ngoại biên để hướng tới trung tâm thi ca Việt Nam đương đại.
Bao giờ cũng vậy, mỗi khi gặp nhau tôi luôn nói với Trần Tuấn rằng tôi có một ước ao mãnh liệt là được gặp anh khi anh đang tỉnh. Trần Tuấn chỉ cười, nụ cười của một thi sĩ đang âm mưu để giấu kín những giấc mơ phủ đầy sự chết vào sâu trong túi áo, vào sâu trong những sợi tóc ngả màu của anh.
Những sợi tóc biếng cười giữa cuộc đời dễ khóc.
L.M.P
(TCSH342/08-2017)
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).