BÙI VIỆT PHƯƠNG
Cụm từ “giá trị văn học” luôn chiếm một tần suất rất lớn trong các bài viết mang tính tổng kết, khái quát hay các bài viết phản ánh, phê bình.
Ảnh: internet
Trên thực tế, vấn đề “giá trị văn học” lại có nhiều cách đánh giá: Không ít tác phẩm văn học đoạt giải trong một số cuộc thi (đặc biệt do các hội địa phương tổ chức) được thẩm định nghiêm túc, kĩ càng, được khẳng định là mang tính dự báo, phát hiện… nhưng lại sớm bị quên lãng. Trong khi, không ít tác phẩm chưa từng đoạt giải thưởng như: Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu; kì tích về lượng phát hành thơ của Phong Việt, thậm chí đến cả những bài thơ lẻ của Nồng Nàn Phố - Phạm Thiên Ý… lại được nhiều người tung hô, ngợi ca trên các trang cá nhân và nhắc đến trong cuộc sống. Vậy đâu là giá trị đích thực của một tác phẩm? Nội hàm “giá trị văn học” mang tính hàn lâm mà các ban giám khảo, các nhà lý luận phê bình (LLPB) nhắc đến có trùng khít quan niệm về giá trị văn học của công chúng ngày nay không? Nếu có sự khác biệt, sự chuyển dịch thì yếu tố nào đã tác động, đã tạo ra sự thay đổi? Giải pháp nào để tìm được tiếng nói chung hay tác động, tuyên truyền?
Theo quan điểm của người viết bài này trước hết cần làm rõ những điểm sau: Khái niệm giá trị văn học? Giá trị văn học đương đại (chỉ tính riêng trong hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI) gồm những bộ phận nào? Được khẳng định ở những khía cạnh nào? Từ đó cơ hồ mới có thể tìm ra các yếu tố chi phối và tác động đến giá trị văn học ngày nay.
Khái niệm giá trị văn học đã tiếp tục được định nghĩa với các giá trị nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, dự báo… Giá trị của văn học đầu thế kỷ XXI trong nhận thức của nhiều nhà nghiên cứu và độc giả còn được phân loại bởi lực lượng sáng tác: văn học truyền thống và văn trẻ. Mỗi lực lượng sáng tác có một giá trị riêng, chịu sự tác động riêng.
1. Văn học trẻ với áp lực cạnh tranh
Văn học trẻ hay văn trẻ là khái niệm khá mới mẻ nhưng đã được thừa nhận trong những năm gần đây. Tác giả Hoàng Dung trên trang Văn học quê nhà nêu quan điểm: “Nhà văn trẻ là một khái niệm có tính cách loại trừ, nó đã và đang thực hiện chức năng gạt ra một bên nhóm người nào đó, ai đó và đồng thời với việc gạt ra này là sự định vị họ trong nghề nghiệp. Ví dụ “những người ở độ tuổi 35 trở lại, đã có thành tựu và có những tác phẩm văn học gây được sự chú ý” được định nghĩa - quy định là nhà văn trẻ. Chỉ bằng tiêu chí tuổi đời, người ta đã làm được việc khu biệt một nhóm người viết, và nếu tính thêm tiêu chí “đã có thành tựu” và “có tác phẩm gây chú ý” thì sự phân hóa, phân loại càng rõ. Nhưng chúng ta cũng thấy không chỉ tiêu chí tuổi đời (chỗ này người ta quy định dưới 35, nơi khác có thể thâu nhận cả những người trên 35 dưới 50 vào nhóm nhà văn trẻ) có thể bị thay đổi mà ngay cả cái gọi là “đã có thành tựu” và “có tác phẩm gây chú ý” cũng dễ thay đổi, thường xuyên thay đổi”.
Về giá trị sáng tác của văn trẻ, chúng ta có thể nhận ra những đặc điểm cơ bản. Nhận xét về văn học trẻ, nhà phê bình Trần Hoài Anh cho rằng: “Người trẻ bị cuốn hút vào sứ mệnh của thời đại. Họ thể hiện những vấn đề của cha ông và quá khứ bằng cách nhìn của họ chứ không vay mượn từ những cảm xúc sử thi hoành tráng trong quá khứ. Đừng lo người trẻ không chạm tới những vấn đề chở đạo trong quá khứ. Và cũng không thể lấy tiêu chí của những người thuộc thế hệ đi trước để đo văn học trẻ. Còn sứ mệnh của văn học trẻ là gì thì các bạn viết trẻ phải tự trả lời”. Vậy “sứ mệnh của thời đại” mà Trần Hoài Anh nhắc đến là gì? Chúng ta có câu trả lời từ chính những người trẻ. Cây bút trẻ Anh Khang cho rằng: “Đối với thế hệ trẻ chúng tôi, khoan hãy nói về hay dở, chỉ nói về số lượng thôi, thời gian gần đây, những cuốn sách bán chạy đã mang lại tín hiệu lạc quan cho các công ty sách, nhà phát hành và thị trường văn hóa đọc”. Tuy thuộc vào độ tuổi lớn hơn nhưng nhà văn Trần Nhã Thụy cũng có một quan điểm tương tự: “Sứ mệnh của một nhà văn, hay nói khác đi là đạo đức của một nhà văn, là viết ra những tác phẩm hay. Còn hay như thế nào thì thời gian chính là thước đo tốt nhất”.
Qua những đánh giá này, ta có thể thấy người viết trẻ đang đứng trước áp lực cạnh tranh rất lớn giữa văn học và các hình thức giải trí khác. Bởi thế, người viết trẻ phải có những xu thế rõ ràng. Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp, có thể nhận diện sáng tác trẻ ở 3 vấn đề: Thứ nhất, thể hiện những ẩn ức, dồn nén cá nhân; thứ hai, vấn đề tình dục; thứ ba, suy ngẫm về các giá trị truyền thống từ cái nhìn hiện đại. Nhà phê bình Hoàng Đăng Khoa lại có một cách nhìn nhận khác: “Một cách tương đối, có thể thấy văn xuôi trẻ đang chuyển dịch theo ba hướng. Hướng thứ nhất, thiên về tìm tòi, thể nghiệm kỹ thuật tự sự, thiên về “vị nghệ thuật”, hướng đến đối tượng người đọc phi truyền thống, có tầm đón nhận cao […]. Hướng thứ hai, phát huy chức năng giải trí, hướng đến phục vụ đối tượng bạn đọc bình dân, phổ thông. Nhóm tác phẩm này thường từ đời sống mạng bước ra đời sống giấy, được định danh là “văn học đại chúng”, “ngôn tình” […]. Hướng này có phần ồn ào, bởi mỗi tác giả sở hữu một lượng fan “khủng”, có chiến lược tiếp thị, quảng cáo chuyên nghiệp. Người thì cho tác phẩm của các tác giả này là “văn học thời trang” thỏa mãn nhu cầu giải trí nhất thời, chỉ là sản phẩm “cận văn học”; người thì bảo hẳn phải “có cái gì” thì mới được giới trẻ đón nhận như thế... Hướng thứ ba, cân bằng, dung hòa giữa nội dung và hình thức, giữa cái được kể và cách kể, giữa truyền thống và hiện đại, giữa bác học và bình dân..., làm phong phú tác phẩm của những tác giả còn lại, làm nên chủ lưu của văn xuôi trẻ.” (“Nhận diện một số xu hướng văn trẻ” - Báo Nhân dân). Từ đó, có thể rút ra những nhận định hai yếu tố chính tác động đến giá trị văn học trẻ:
1.1. Áp lực của đời sống công nghệ khiến văn học phải hướng đến số đông với tư cách là những người đọc đặc biệt. Cư dân mạng là những độc giả có quyền uy quyết định đến sự sống còn của sáng tác này. Sáng tác cũng là một cuộc chiến sinh tồn để giành giật mảnh đất sống của văn học so với các thể loại cận văn học, các hình thức thực tế ảo. Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến từng lo lắng: “Phải chăng tình yêu thơ ca không còn đất sống trong tâm hồn con người hiện đại, khi “cơn lốc” của đời sống công nghiệp, đời sống đô thị và cái gọi là “lối sống gấp” đang nghiền thời gian sống của chúng ta thành mảnh vụn?”
Văn học trẻ cũng là sự hiện thực hóa đời sống ảo: những ẩn ức tình dục, những suy ngẫm về truyền thống là một sự giải tỏa những tưởng tượng của người trẻ, là cách họ kiến giải về những vùng mờ, khuất của lịch sử như sáng tác của Lê Vũ Trường Giang, Nguyễn Kim Hòa, Phạm Giai Quỳnh…
1.2. Sự dung hòa giữa truyền thống và hiện đại đưa đến những chiêm nghiệm sâu sắc. Lâu nay, đã xuất hiện một xu thế tìm đến sự dung hòa giữa truyền thống và hiện đại trên nhiều phương diện như: sự lựa chọn đề tài, thể tài, giọng điệu, đến các hình ảnh, biểu tượng… Không quyết liệt đoạn tuyệt truyền thống như thơ tân hình thức, như phim ngắn, kịch phi lý… sáng tác của người trẻ nhiều khi rơi vào sự hòa hoãn với quá khứ với cách nhìn khá câu nệ vào cảm hứng giải thiêng, giải ảo, Chủ nghĩa hậu hiện đại… Những bất lợi về vốn sống, về bản lĩnh trước áp lực phán xét khiến các cây bút trẻ khó có thể phát huy được thế mạnh. Nhận xét về điều này, nhà văn Phong Điệp từng nhận định: “Ở ta, tiểu thuyết lịch sử chưa phải là cuộc chơi của những cây bút trẻ người, trẻ nghề. Một là, việc xử lý tư liệu đòi hỏi phải hết sức cẩn trọng, nghiêm túc, tỉ mỉ và tốn nhiều thời gian, công sức. Trên thế giới, trường phái tân lịch sử cho rằng các bộ cổ sử chẳng qua cũng chỉ là những câu chuyện do một cá nhân/tập thể nào đó kể lại, đầy chủ quan và thiên kiến, cái gọi là chân thật lịch sử hết sức mờ ám, không đáng tin cậy, xét một cách rốt ráo thì cũng chỉ là một loại tự sự. Chủ nghĩa hậu hiện đại đặt ra vấn đề siêu hư cấu lịch sử, coi sự kiện lịch sử chỉ là chất liệu của việc hư cấu sáng tạo và các nhà văn có toàn quyền xử lý chất liệu này, bao gồm cả nhại giễu, cóp nhặt (parody, pastiche), thậm chí có thể sử dụng bút pháp “trọng ngôn” mà từ cổ xưa Trang Tử đã dùng để hiện tại hóa và đương thời hóa những phát ngôn của các nhân vật lịch sử. Những quan điểm trên rõ ràng giải phóng tiềm năng sáng tạo của người nghệ sĩ và hứa hẹn sẽ có những tác phẩm lớn. Tuy nhiên, ở ta, lịch sử là thứ ngôn ngữ thánh hiền thiêng liêng, người biên chép lịch sử chẳng khác người biên chép Kinh Thánh, áp lực cộng đồng không cho phép những vĩ nhân đã được đặt trên bệ thờ cùng khói hương và sự sì sụp khấn vái của cộng đồng lại trở thành đối tượng của sự “nhại giễu”, “xuyên tạc”, “báng bổ”, “tầm thường hóa” của lớp hậu sinh. Viết tiểu thuyết lịch sử tức là chấp nhận sự phán xét của các nhà sử học “khách quan” và “công tâm” cùng đa số công chúng độc giả vốn quen với những “huyền thoại lịch sử”. Đó là một thách thức mà nếu không phải những cây bút già dặn, từng trải, đầy kinh nghiệm như Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân, Võ Thị Hảo thì không thể làm nổi.” (“Tiểu thuyết lịch sử không phải là cuộc chơi của người trẻ” - Văn nghệ trẻ).
2. Sự thay đổi của các cây bút thế hệ trước
Trước hết, cần nhìn nhận diện mạo của dòng chủ lưu (Mainstream) văn học Việt Nam hiện nay. Theo nhà thơ Hữu Thỉnh: “Dòng chủ lưu của văn học nước ta hiện nay là yêu nước, nhân văn và dân chủ, hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới.” Từ đó, chúng ta nhận ra những chuyển động của thi ca đương đại và những xu thế khai phá, sáng tạo theo các khuynh hướng chính đó. Từ những cây bút đã thành danh từ các giai đoạn trước như: Y Phương, Thanh Thảo, Lê Minh Khuê… nhận diện về sự biến chuyển này, nhà nghiên cứu Đỗ Hải Ninh đã chỉ ra một số đặc điểm nhận diện: “Văn chương dấn sâu thêm vào chủ đề cái ác và bạo lực như là cách đặt câu hỏi phỏng vấn và nỗi lo âu, hoài nghi về tồn tại của con người. Sự tự do của ngòi bút thể hiện trong cái nhìn đa chiều về đời sống, trong cách họ gửi gắm vào thế giới hư cấu đến độ huyễn tưởng. Giai đoạn này cũng chứng kiến thế hệ trở lại sau khoảng thời gian dài im lặng: Nguyễn Xuân Khánh, Bùi Ngọc Tấn, Châu Diên. Với những trải nghiệm đặc biệt, riêng khác của bản thân giúp họ có thể lật giở lịch sử từ những góc khuất.”.
Thậm chí, các nhà nghiên cứu còn có thể nhận ra những sự chuyển động cụ thể hơn như không gian văn học như một sự “ra đi” và “trở về” với việc mở rộng đối tượng như văn học miền Nam trước 1975 hay dòng văn học hải ngoại.
3. Hệ quả của sự tác động và chi phối
Tất cả những yếu tố nêu trên đã tác động trực tiếp đến giá trị văn học trong đương đại ở những phương diện cơ bản sau:
Thứ nhất, ý thức về sự hội nhập sâu rộng về văn hóa, dẫn đến sự tiếp thu những hình thức thể loại, phương pháp sáng tác, quan niệm nghệ thuật. Điều này không chỉ thể hiện trong sáng tác mà thể hiện trên bình diện tổng thể của lý luận, phê bình, nghiên cứu, dịch thuật và trao đổi… từ đó dẫn đến những sáng tác văn học mang giá trị nhân văn. Đây cũng là động lực để nhiều cây bút mạnh dạn động chạm đến “vùng cấm”, những vấn đề “nhạy cảm” trong truyền thống tư tưởng, văn hóa. Từ đây cũng xuất hiện những thể nghiệm nghệ thuật mới tạo ra những tác phẩm với đặc trưng thể loại rất ít hoặc chưa từng xuất hiện.
Thứ hai, ý thức sáng tạo mạnh mẽ đã hình thành một “ý thức hệ nhà văn” dám nhìn nhận lại, lật lại vấn đề, dám đề cập đến mặt trái tạo ra những “làn sóng ngược”, đả phá dữ dội, quyết liệt nhiều giá trị đã lạc hậu, lỗi thời, đặc biệt là thông qua các đề tài lịch sử.
Thứ ba, xuất hiện xu hướng cực đoan, thể hiện sự phiến diện, lệch lạc, mơ hồ của người viết về lịch sử, về các giá trị tư tưởng qua các biểu hiện như: lý giải ý nghĩa các cuộc chiến tranh (giữa chiến tranh vệ quốc chính nghĩa với nội chiến), phủ nhận vai trò lịch sử của Đảng, của cách mạng, nghi ngờ sự hy sinh của ông cha là sự hy sinh vô nghĩa, mù quáng… kêu gọi người đọc một ý thức phản kháng, sám hối.
Tựu chung lại, giá trị của văn học đương đại dù ở đội ngũ sáng tác nào, với quan niệm về chính trị, tư tưởng, lịch sử, văn hóa nào cũng chịu sự tác động ít nhiều từ khách quan. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ áp lực của đối tượng tiếp nhận trong xu thế cạnh tranh gay gắt. Nhà văn trước hết phải giành được sự đọc rồi mới dám nghĩ đến việc tác phẩm của mình được thẩm định ra sao.
Nhà văn dù có ý thức sâu sắc hơn về đặc trưng thể loại; bản lĩnh của người cầm bút có được từ sự tích lũy tri thức văn học, văn hóa nhưng đôi khi lại câu nệ, phụ thuộc quá nhiều vào những trào lưu viết của nhóm, của lứa tuổi đặc biệt trong cách đánh giá lịch sử hay đạo đức xã hội.
Giải pháp hữu hiệu và tích cực nhất chỉ đến từ sự đầu tư nghiên cứu hệ thống lý luận bám sát thực tiễn, bám sát đời sống sáng tác để định hướng điều chỉnh những lệch lạc, đem lại cái thống nhất và sâu sắc hơn cho người viết thông qua các sáng tác tạo nên giá trị của văn học đương đại.
B.V.P
(TCSH402/08-2022)
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.
PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)
HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.
NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.
PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.
NHỤY NGUYÊN
Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.
QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.
NHỤY NGUYÊN
(Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)
TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)
NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…
BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.
HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.
VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!
MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.
DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.
LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.
FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.