Giá trị biểu cảm của từ chỉ loại “cái” trong tiếng Việt

14:34 22/03/2010
HOÀNG TẤT THẮNG         (Vì sự trong sáng tiếng Việt)

Cũng như những từ cùng nhóm khác trong tiếng Việt (con, chiếc, tấm, mảnh, miếng...), từ “cái" có hai loại:

1. Loại thứ nhất, “ cái” là danh từ hay tính từ (con dại cái mang, khôn ăn cái, dại ăn nước, cầm cái, lợn cái, rễ cái...)

- Loại thứ hai, “ cái” là yếu tố cấu tạo danh từ (cái ăn, cái mặc), chỉ đơn vị, chỉ loại (cái bàn, cái nhà) hoặc nhấn mạnh (cái con người ấy...)

Bài viết này chỉ xem xét từ “ cái” thuộc loại thứ hai.

Xét về ý nghĩa ngữ pháp, từ chỉ loại “ cái” khác với từ chỉ loại “ con” ở chỗ, từ chỉ loại “con” thường kết hợp với những từ chỉ vật hữu sinh (con gà, con chim), từ chỉ loại “ cái” thường kết hợp với những từ chỉ vật vô sinh (cái bàn, cái nhà...)

Mặc khác, từ “ cái” còn mang nét nghĩa bất động, tĩnh lại, từ “ con” lại mang nét nghĩa vận động. Bởi vậy, cùng một sự vật, như “ thuyền” chẳng hạn nếu nhìn nó ở khía cạnh vận động, xuôi ngược trên sông nước thì ta nói “ con thuyền’, nhưng nếu nhìn ở khía cạnh tĩnh tại, bất động thì ta nói “ cái thuyền”.

Những trường hợp như cái xe, con xe, cái dấu, con dấu... đều được nhìn nhận theo cách tương tự.

2. Từ chỉ loại “ cái” trong tiếng Việt có các nét nghĩa như sau:

- Cá thể hóa sự vật, sự việc với nghĩa rất khái quát (cái ăn, cái mặc, cái hay, cái dở...)

- Chỉ đơn vị riêng lẻ thuộc loại vô sinh (cái bàn, cái nhà)

- Chỉ từng cá thể động vật thuộc một số loại, thường là bé nhỏ hoặc được nhân cách hóa (con ong, cái kiến...) (Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ, Nxb “ KHXH”, Hà Nội, 1994)

Song, khi được sử dụng trong ngôn ngữ tác phẩm văn học, từ chỉ loại “ cái” lại “ khoác một tấm áo mới” về sắc thái ý nghĩa và sắc thái biểu cảm, trên cơ sở các nét nghĩa lôgic vốn có của nó.

3. Trong phạm vi ngôn ngữ tác phẩm văn học, từ chỉ loại “ cái” xuất hiện trong ngôn ngữ văn xuôi không giống như trong ngôn ngữ thơ ca.

3.1. Trước hết, tần số xuất hiện của từ chỉ loại “ cái” trong ngôn ngữ văn xuôi chiếm tỉ lệ khá cao trong khi tần số xuất hiện của nó trong ngôn ngữ thơ lại vô cùng nhỏ bé. Kết quả thống kê một số tác phẩm văn xuôi và thơ ca sau đây có thể chứng minh cho nhận xét trên:

Tác phẩm văn học Vang bóng

một thời

sông Đà
Đoạn tuyệt Tuyển tập

truyện ngắn Tô Hoài
Thơ Thơ Hàn Mặc Tử Từ ấy... chào năm 2000
Tổng số câu của văn bản 7825 1638 8820 694 906 4246
Tần số xuất hiện của "cái" 1068 121 895 2 4 13
Tỉ lệ % 13% 7% 11% 0,3% 0,5% 0,4%


Giải thích hiện tượng này phải căn cứ vào đặc điểm ngữ nghĩa của từ chỉ loại “ cái”, đồng thời dựa vào đặc trưng ngôn ngữ cũng như phương thức phản ánh của tác phẩm văn xuôi.

3.2. Trong văn xuôi, nói chung từ chỉ loại “ cái” xuất hiện không vì mục đích tu từ biểu cảm mà trước hết nó mang màu sắc khẩu ngữ, mang sắc thái của lời nói ngày thường. Do đó, nó làm trung hòa về sắc thái và khái quát hóa về ý nghĩa của các từ đứng sau. Bởi vì từ “ cái” là một từ có ý nghĩa hết sức trống và hết sức khái quát.Do vậy, nó có khả năng kết hợp tự do nhất và sự vật hóa cao nhất. Sau loại từ “ cái” ta có thể gặp bất kỳ một từ loại nào. Do đó, trong các tác phẩm Sông Đà, Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Nửa chừng xuân của Khái Hưng, mà chúng tôi đã thống kê và khảo sát, những cấu trúc có từ chỉ loại “ cái” lẽ ra phải được thay thế bằng một loại từ hoặc một từ nào khác thì mới hợp lôgic diễn đạt.

Chẳng hạn, cái thuần khiết có thể thay bằng sự thuần khiết

                        cái cả có thể thay bằng đứa cả
                        cái
thân nhàn có thể thay bằng tấm thân nhàn
                        cái hiệp ước có thể thay bằng bản hiệp ước
                        cái
cười duyên có thể thay bằng nụ cười duyên
                        cái u sầu có thể thay bằng nỗi u sầu
                        cái
hạnh phúc có thể thay bằng niềm hạnh phúc
                        cái
truy hoan có thể thay bằng cuộc truy hoan
                        cái
núi có thể thay bằng hòn núi
                        cái
chính trị có thể thay bằng tính chính trị
.....

Tại sao lại có hiện tượng này? Như đã biết, việc xây dựng hình tượng ngôn ngữ trong văn xuôi chủ yếu dựa vào việc khai thác quan hệ kết hợp, mở rộng quy mô của cấu trúc, do vậy, việc lựa chọn, cân nhắc từ ngữ để thay thế từ cái bằng một từ khác cho hợp với lôgíc diễn đạt không phải là điều cần thiết. Ngay việc qui tất cả các từ khác về một cách diễn đạt bằng loại từ cái cũng là một việc “ không bình thường” rồi.

Trong các tác phẩm văn xuôi, nói chung, cái thường được dùng để khẩu ngữ hóa câu văn, khái quát hóa, “ sự vật hóa” các hiện tượng thuộc về tinh thần, tình cảm mà không thể thay thế bằng một từ nào khác.

Chẳng hạn, “ cái thiên lương của cậu tốt lắm”

(Sông Đà- Nguyễn Tuân)

Ngay cả những sự vật, hiện tượng cụ thể, hữu hình cũng được dùng với từ chỉ loại cái mà không dùng với các loại từ đặc trưng, nhằm để xác định hóa, khách quan hóa và nhấn mạnh sự vật, hiện tượng ấy.

Chẳng hạn, không dùng từ “ mảnh” “ tôi thấy cái đất Tuần Giáo này không ít người biết đến” (Sông Đà- Nguyễn Tuân)

Hoặc không dùng loại từ “ cơn”: “ Hồi xưa tôi ở Lào đã thấy cái mưa Lào” (Sông Đà- Nguyễn Tuân)

3.3. Trong ngôn ngữ thơ, trái lại, do nhu cầu xây dựng hình tượng bằng việc tập trung khai thác hệ liên tưởng (lựa chọn), nên việc cân nhắc sử dụng từ ngữ phải rất công phu. Từ ngữ và sự kết hợp trong thơ phải mang tính hình tượng cao. Loại từ Cái, do phẩm chất nghĩa như đã nói ở trên, nên không phù hợp với ngôn ngữ thơ ca. Nó chỉ được sử dụng với sắc thái tu từ biểu cảm trong những văn cảnh thật cần thiết.

Chẳng hạn, “ như cái cò lặn lội bờ sông, chở than đi bán trong các xóm làng qua bữa” (Ánh sáng và phù sa- Chế Lan Viên)

Ở đây, ta gặp cấu trúc cái cò. Lẽ ra về lôgíc phải nói con cò, nhưng dùng kết hợp cái cò vừa gợi cho ta phong vị câu ca dao xưa với sự cảm thông về số phận cay đắng, về cuộc đời lam lũ của những người phụ nữ nông dân bé mọn quanh năm vất vả nơi “ đầu sông cuối bãi”

Hoặc một trường hợp khác trong văn xuôi giàu chất thơ: “ ông giáo thấy tất cả cái táng tận lương tâm của mợ tú, cái thói ích kỉ, tàn nhẫn của người đàn bà hư hỏng ấy” (Vang bóng một thời- Nguyễn Tuân)

Cụm từ “ táng tận lương tâm” phản ánh một trạng thái tâm lý nội tâm, đi liền với tính “ ích kỷ và tàn nhẫn”. Nhưng tất cả những trạng thái tâm lí ấy đều lần lượt đã được bộc lộ bằng những hành vi bên ngoài và ông giáo đã thấy. Do vậy, việc khái quát hóa, sự vật hóa các hành vi trên bằng loại từ cái là một thao tác có dụng ý nghệ thuật. Nếu thay đổi sự vào vị trí của cái thì hiệu quả nghệ thuật sẽ giảm sút.

Từ những phân tích trên, ta có thể khái quát các sắc thái nghĩa biểu cảm của cái khi được sử dụng trong ngôn ngữ tác phẩm văn học:

- Xác định hóa, nhấn mạnh hóa các sự vật, tâm trạng...

- Sự vật hóa các đối tượng trừu tượng, các trạng thái, tính chất, tâm trạng...

- Tĩnh hóa cái động, nhỏ nhoi hóa, bé bỏng hóa cái to lớn, sắc thái biểu cảm trìu mến, yêu thương.                                                                    

Tháng 10. 1999
H.T.T
(133/03-2000)



 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.