Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên - gọi thân mật là Nguyên “đầu bạc” (vì mái đầu bạc trắng từ lúc còn trẻ) - một người xứ Nghệ “thuần chủng” cha ở Nghệ An, mẹ ở Hà Tĩnh, nhưng đang là Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội.
Nguyên “đầu bạc” trò chuyện với Tiền Phong xung quanh công việc của một người Nghệ đang “quản” Hội nhà văn của Thủ đô. Bằng chất giọng Nghệ đặc sệt- chất giọng mà sống ở Hà Nội già nửa đời người, ông vẫn không có khả năng thay đổi...
Ông là một người con xứ Nghệ nhưng lại được bầu làm Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, ông có cảm giác gì?
Trước khi nói về vị trí tôi đang đảm nhiệm, tôi xin nhắc lại một vài kỷ niệm. Tôi ra Hà Nội (HN) học đại học năm 1975 gắn bó với HN từ đó đến nay. Sau này lập gia đình, vợ tôi là con gái Hà Nội. Sau này con gái tôi cũng tự nhận mình là một người HN.
Hà Nội trong tôi những năm đại học. Nhớ nhất những sáng chủ nhật từ ký túc xá Mễ Trì nhảy tàu điện, ô tô buýt hoặc cưỡi xe đạp ra Ngã Tư Sở, xa nữa là Nam Đồng, xa hơn nữa là Ô Chợ Dừa để chen chúc xếp hàng mua bánh mì về cho chúng bạn. Không phải mua mà là đổi, đổi tem gạo.
Tuổi học đường nghèo tiền nhưng giàu tình, có cuộc gì vui gom góp cùng nhau ra chợ Xanh mua chút gì tươi về cải thiện. Thường ngày món chủ lực, cốt cán vẫn là rau muống. Có hẳn cả một bài thơ trường thiên ca ngợi rau muống trong tình yêu đôi lứa sinh viên. “Hôm nay anh đi chợ Xanh/Mua bó rau muống viết thành trường ca/Em ơi rồi em sẽ già/Riêng cây rau muống mãi là trẻ trung…
Hà Nội trong tôi là con tôi bây giờ mang trong mình nửa dòng máu ngàn năm đất Thăng Long. Tôi thấy HN ở bề sâu bề xa, con tôi nhìn HN ở bề mặt. Chỗ tôi nhắc hố bom giết người, con tôi thấy một building...
Hội Nhà văn HN mang đặc trưng của thủ đô là nơi hội tụ, tập hợp, chung đúc nhiều tinh hóa văn hóa của các miền khác nhau, thu hút nhiều nhân tài về hội tụ. Cho nên tính vùng miền, cục bộ địa phương, kỳ thị không phải là không có, nhưng không quá nặng nề. Vì là vị thế thủ đô, vị thế kinh thành nên tính chất thủ đô, tính chất đại diện nó mạnh hơn các vùng miền khác.
Là một người xứ Nghệ làm chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, ông cảm thấy mình gặp những khó khăn, thuận lợi nào?
Nói về thuận lợi, tôi được sự tín nhiệm của các anh chị em trong Hội, bầu lên bằng lá phiếu của mình. Trong gần một nhiệm kỳ làm việc, tôi được mọi người ủng hộ, tán đồng những quan điểm, hoạt động mà tôi đưa ra.
Bên cạnh đó, tất nhiên là có những trở ngại. Tính từ năm 1975, tôi đã có 40 năm sống ở HN nhưng để du nhập HN, vào văn hóa Thăng Long, để tìm hiểu về HN như một người không sinh ra ở HN mà sống trên đất HN thì đó không phải là một điều dễ dàng.
Để đảm nhiệm vị trí này, tôi đã có quá trình tích lũy cách ứng xử, văn hóa của người HN. Trong quá trình đó, tôi hết sức tránh thể hiện tính địa phương của mình. Nếu hỏi trở ngại lớn nhất thì có lẽ là chất giọng Nghệ. Nhưng ngược lại nhờ nó mọi người lại nhận ra nét riêng trong con người tôi.
Giọng Nghệ vì sao lại là một trở ngại? Người Nghệ sống ở HN lâu năm thường dễ đổi chất giọng như người HN, vì sao ông vẫn khư khư giữ lấy giọng của dân “cá gỗ”?
Đã có nhiều người hỏi tôi câu này. Có một số người nói tôi cố chấp, không đổi giọng Nghệ nhưng thú thực là tôi không thể đổi được giọng như những người khác. Có lẽ, ở cái tuổi mười tám, hai mươi tôi mới rời quê nên cái chất quê cộng với tâm sinh lý đã khiến tôi không đổi giọng được.
Tôi thấy những người lớn tuổi, những người trẻ gốc Nghệ ở HN thì họ nói giọng HN, còn khi về quê họ lại nói giọng Nghệ. Nhưng tôi thì lại không làm được thế. Mà nếu đã không đổi được thì mình không nên cố, cứ để tự nhiên. Bạn bè tôi thương, bảo giọng tôi khó nghe nhưng khi ngâm thơ lại khá hay. Đó không phải là sự cố chấp, cứ tỏ vẻ ta đây vẫn là quê, vẫn là gốc đấy.
Một ngọn gió qua sông Hồng cũng đậm chất Thăng Long
Từ trước đến nay nhiều văn nhân xứ Nghệ đã bồi đắp cho văn hóa Thăng Long - Hà Nội từ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ đến Xuân Diệu, Huy Cận... Họ là những người đã sống nhiều ở Hà Nội và tỏa sáng ở Thủ đô. Ông có nhận xét gì về điều này?
Khi còn 10 năm nữa là kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long HN, trong một cuộc hội thảo tôi đã từng nói: Đến một ngọn gió bay qua sông Hồng cũng đậm chất Thăng Long, đậm chất kinh thành.
Người ta rút ra rằng, không riêng gì HN mà bất kỳ một thủ đô nào có truyền thống bề dày lịch sử, những nhà văn hóa lớn, nhất là các nhà văn, nhà thơ thì dù ở đâu họ cũng trở về thủ đô.
Nguyễn Du từng viết: “Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long” (bạc đầu còn được thấy Thăng Long) thấy chốn đô thành trải thăng trầm lịch sử vẫn “do thị Thăng Long cựu đế kinh” (đây vẫn còn là Thăng Long kinh đô cũ), dẫu cảnh cũ người xưa đã lắm đổi thay theo sự biến thiên của dòng đời và thời cuộc… Tôi thấy Nguyễn như đang về đâu đó giữa Hà Nội những ngày đầu năm 2000, ông không ngủ, văng vẳng tiếng sáo dắt ông đi tìm lại một Thăng Long xưa trong một Hà Nội nay.
Tôi muốn tìm hiểu xem Hồ Văn, nơi mà Nguyễn Du được nghe cô gái ôm đàn cầm chơi để từ đó ông làm thành tuyệt tác Long Thành cầm giả ca. Đó là ví dụ về sự đóng góp của văn hóa vùng miền.
Theo ông, chất văn hóa đặc trưng nhất của HN là gì?
Chất văn hóa của HN đó là chất thủ đô, nó dung hòa và độc lập. Hay nói cách khác, sự tiếp kiến văn hóa nó đan xen với sụ dung hòa. Đó là một đặc trưng của văn hóa Thủ đô. Nhưng hiện nay chất dung hòa đó đang kém bộ lọc. Đời sống xã hội xô bồ, bát nháo nên cái cũ có thể bị mất đi, cái mới, cái tốt đẹp mới chưa được định hình, ổn định.
Thưa ông, nhìn lại Thủ đô, sau 60 năm kể từ ngày giải phóng 10/10/1954, có một dòng văn học vẫn chảy xuyên suốt, những thời điểm này có phải đang là quãng phẳng lặng không?
HN sau ngày 10/10/1954, tính đến nay đã 60 năm giải phóng, quãng thời gian đó có 20 năm là thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và 40 năm thủ đô của nước CHXHCN Việt Nam. Có thể nói đây là cái nôi của mọi hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật. Vừa rồi chúng tôi có cuộc gặp gỡ với những nhà văn nhà thơ trở về từ sau giải phóng thủ đô. Nhìn vào quang cảnh phố phường hiện nay, họ không khỏi ngậm ngùi, cảm hoài, tiếc nuối. Một HN đô thị có vẻ như đang mất mát, phai nhạt đi.
Dòng chảy văn học 60 năm ấy, nếu kể ra thành tựu thì vẫn kể được. Nhưng để trở thành một trung tâm văn hóa thủ đô, tôi chưa nói là đầu não, thì còn thiếu.
Hội Nhà văn Hà Nội có gần 600 hội viên, với vị thế Thủ đô mà 63 Hội văn nghệ của 63 tỉnh thành trong cả nước không có được. Nên chúng tôi làm gì cũng luôn cố gắng, từ việc trao giải thưởng, kết nạp hội viên, tổ chức các cuộc hội thảo.
Ví dụ: Xét giải thưởng không phải xét cho hội viên mà xét cho những những ai từng sống ở HN và có những tác phẩm xứng đáng. Cũng như chúng tôi tổ chức các cuộc hội thảo phải có vị thế. Tôi cho rằng, Hội có tính phong trào nhưng đó phải có tính thủ đô, chất thủ đô và tính đỉnh cao.
Chưa có tác phẩm đỉnh cao về Hà Nội
Sau quãng thời gian 60 năm nhìn lại, phải chăng những tác phẩm về HN đang ít đi, thưa ông?
Vừa rồi, dịp nhà văn Tô Hoài mất, tôi đã đề xuất sáng lập ra một giải thưởng Tô Hoài để trao giải cho những tác phẩm viết về HN dành cho những người sống ở HN và cả những nguười HN xa quê viết về HN. Hai năm trao giải một lần vào năm chẵn, đúng ngày sinh của Tô Hoài. Tuy nhiên do thời gian gấp quá nên vẫn chưa triển khai được. Chúng tôi đang cố gắng xây dựng để kịp trao giải vào nhiệm kỳ tới nhằm vinh danh nhà văn đích thực của HN, quê HN, có những đóng góp để đời cho HN. Đồng thời kích thích sự sáng tạo, đóng góp của họ...
Tôi đã định tổ chức một cuộc thi sáng tác văn xuôi, tiểu thuyết về HN. Theo tôi, mỗi người đều có một HN riêng của mình, dù là người ngụ cư, người chính gốc, những người ở các vùng miền khác đã từng đến HN.
Cũng phải thừa nhận rằng, những tác phẩm thực sự về HN, đỉnh cao để khi vừa nhắc đến người ta đã nhớ thì chưa có..
Thực tế thưa vắng tác phẩm đỉnh cao về Hà Nội phải chăng cũng có một nguyên nhân là HN đang kém hấp dẫn hơn, chất văn hóa đặc trưng đã loãng?
Nói về sự kém hấp dẫn Hà Nội có lẽ cũng đúng. Phải để ý một điều rằng, nếu các nhà văn viết về hoài niệm quá khứ thì không có vấn đề gì. Nhưng nếu để viết về một HN xô bồ, nhốn nháo như bây giờ thì có vẻ mang âm hưởng tiêu cực.
Những cây bút viết về HN thường là những người đã có tuổi, nhiều chiêm nghiệm. Còn các cây bút trẻ viết về Hà Nội thì khá hiếm?
Những cây bút trẻ bây giờ họ thường viết về chính họ. Khung cảnh của họ cũng vẫn là khung cảnh HN. Những tác giả trẻ có thể là những người từ Sài Gòn hay nơi khác ra HN để viết về HN. Những tác phẩm đó họ chú tâm vào khung cảnh tự nhiên nhiều hơn là chú tâm vào chính HN. Nhưng cũng có những nhà văn thiết tha với Hà Nội như nhà văn Trần Chiến, nhà văn Nguyễn Việt Hà viết cuốn “Con giai phố cổ”, hầu như chỉ quẩn quanh trên khu phố cổ, nhà thờ mà không ra khỏi thành phố. Đó là người đắm đuối về HN.
Làm ở HN điều gì khiến ông thích thú nhất?
Năm 1982, tôi ra quân. Trước đó, tôi đóng quân ở Sài Gòn. Cũng phân vân nên sống ở HN hay SG nhưng rồi HN lại kéo tôi ra. Hình như với tính cách, lối sống của tôi có vẻ tôi gần với HN hơn. Nếu so sánh HN và SG thì “HN là làng, còn SG là phố”, mà tính tôi lại hợp với làng hơn.
Tôi vẫn tự coi mình là con người của làng xã, mang nếp văn hóa làng xã. Hà Nội dẫu là thủ đô nhưng vẫn mang dáng dấp làng, “một cái làng lớn nhất” như cách nói của bà người Mỹ Lady Borton. Nhà sử học Trần Quốc Vượng có lần trả lời một bạn nước ngoài hỏi địa chỉ gửi thư cho ông đã nói vui rằng: cứ đề tên và địa chỉ Hà Nội là thư khắc đến. Hà Nội như một cái làng ấy mà, trong làng ngoài xóm ai cũng biết nhau cả, nhân viên bưu tá cầm thư là họ biết chuyển cho ai rồi. Nghe tiếng gọi của Hà Nội, qua tiếng gọi của bạn bè, khi cởi áo lính tôi đã trở về Hà Nội.
Chú bé ngày nào đã lớn và Hà Nội đã khác. Cả con người và thành phố đều đang cựa mình để thay đổi. Có một lớp cán bộ trẻ những ngày đầu về cơ quan, gạo chưa có phải ăn đong, nhà không có phải nằm bàn ngay tại phòng làm việc, nói không ngoa, hồi ấy đã có những đứa bé được bố mẹ chúng thụ thai trên chiếc bàn làm việc của cơ quan, vì cưới nhau rồi mà nhà ở không có. “Giai đoạn nằm bàn” không lâu nhưng đáng nhớ. Tôi biết mình đã được chịu đựng cùng Hà Nội.
Cái tôi thích nhất ở HN đó là thời tiết. Nó có 4 mùa, nó dễ dàng đồng điệu với tâm hồn mình, văn thơ.
Cái tôi không thích ở HN đó là cái quan hệ giữa người và người (nói như vậy có vẻ hơi nặng). Ngày xưa, người ta nói lịch sự như người HN, bây giờ người ta nói tự nhiên như người HN, suồng sã như người HN.
Xin cảm ơn ông.
Nguồn: Phùng Nguyên - TP
MAI VĂN HOAN Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.
HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.
NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).
ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.
HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.
LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.
HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.
HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.
LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.
VĂN CẦM HẢI (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".
TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.
NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.
NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.
VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.
NGUYỄN VĂN HOA Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...
KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.
HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.
TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.