Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên - gọi thân mật là Nguyên “đầu bạc” (vì mái đầu bạc trắng từ lúc còn trẻ) - một người xứ Nghệ “thuần chủng” cha ở Nghệ An, mẹ ở Hà Tĩnh, nhưng đang là Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội.
Nguyên “đầu bạc” trò chuyện với Tiền Phong xung quanh công việc của một người Nghệ đang “quản” Hội nhà văn của Thủ đô. Bằng chất giọng Nghệ đặc sệt- chất giọng mà sống ở Hà Nội già nửa đời người, ông vẫn không có khả năng thay đổi...
Ông là một người con xứ Nghệ nhưng lại được bầu làm Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, ông có cảm giác gì?
Trước khi nói về vị trí tôi đang đảm nhiệm, tôi xin nhắc lại một vài kỷ niệm. Tôi ra Hà Nội (HN) học đại học năm 1975 gắn bó với HN từ đó đến nay. Sau này lập gia đình, vợ tôi là con gái Hà Nội. Sau này con gái tôi cũng tự nhận mình là một người HN.
Hà Nội trong tôi những năm đại học. Nhớ nhất những sáng chủ nhật từ ký túc xá Mễ Trì nhảy tàu điện, ô tô buýt hoặc cưỡi xe đạp ra Ngã Tư Sở, xa nữa là Nam Đồng, xa hơn nữa là Ô Chợ Dừa để chen chúc xếp hàng mua bánh mì về cho chúng bạn. Không phải mua mà là đổi, đổi tem gạo.
Tuổi học đường nghèo tiền nhưng giàu tình, có cuộc gì vui gom góp cùng nhau ra chợ Xanh mua chút gì tươi về cải thiện. Thường ngày món chủ lực, cốt cán vẫn là rau muống. Có hẳn cả một bài thơ trường thiên ca ngợi rau muống trong tình yêu đôi lứa sinh viên. “Hôm nay anh đi chợ Xanh/Mua bó rau muống viết thành trường ca/Em ơi rồi em sẽ già/Riêng cây rau muống mãi là trẻ trung…
Hà Nội trong tôi là con tôi bây giờ mang trong mình nửa dòng máu ngàn năm đất Thăng Long. Tôi thấy HN ở bề sâu bề xa, con tôi nhìn HN ở bề mặt. Chỗ tôi nhắc hố bom giết người, con tôi thấy một building...
Hội Nhà văn HN mang đặc trưng của thủ đô là nơi hội tụ, tập hợp, chung đúc nhiều tinh hóa văn hóa của các miền khác nhau, thu hút nhiều nhân tài về hội tụ. Cho nên tính vùng miền, cục bộ địa phương, kỳ thị không phải là không có, nhưng không quá nặng nề. Vì là vị thế thủ đô, vị thế kinh thành nên tính chất thủ đô, tính chất đại diện nó mạnh hơn các vùng miền khác.
Là một người xứ Nghệ làm chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, ông cảm thấy mình gặp những khó khăn, thuận lợi nào?
Nói về thuận lợi, tôi được sự tín nhiệm của các anh chị em trong Hội, bầu lên bằng lá phiếu của mình. Trong gần một nhiệm kỳ làm việc, tôi được mọi người ủng hộ, tán đồng những quan điểm, hoạt động mà tôi đưa ra.
Bên cạnh đó, tất nhiên là có những trở ngại. Tính từ năm 1975, tôi đã có 40 năm sống ở HN nhưng để du nhập HN, vào văn hóa Thăng Long, để tìm hiểu về HN như một người không sinh ra ở HN mà sống trên đất HN thì đó không phải là một điều dễ dàng.
Để đảm nhiệm vị trí này, tôi đã có quá trình tích lũy cách ứng xử, văn hóa của người HN. Trong quá trình đó, tôi hết sức tránh thể hiện tính địa phương của mình. Nếu hỏi trở ngại lớn nhất thì có lẽ là chất giọng Nghệ. Nhưng ngược lại nhờ nó mọi người lại nhận ra nét riêng trong con người tôi.
Giọng Nghệ vì sao lại là một trở ngại? Người Nghệ sống ở HN lâu năm thường dễ đổi chất giọng như người HN, vì sao ông vẫn khư khư giữ lấy giọng của dân “cá gỗ”?
Đã có nhiều người hỏi tôi câu này. Có một số người nói tôi cố chấp, không đổi giọng Nghệ nhưng thú thực là tôi không thể đổi được giọng như những người khác. Có lẽ, ở cái tuổi mười tám, hai mươi tôi mới rời quê nên cái chất quê cộng với tâm sinh lý đã khiến tôi không đổi giọng được.
Tôi thấy những người lớn tuổi, những người trẻ gốc Nghệ ở HN thì họ nói giọng HN, còn khi về quê họ lại nói giọng Nghệ. Nhưng tôi thì lại không làm được thế. Mà nếu đã không đổi được thì mình không nên cố, cứ để tự nhiên. Bạn bè tôi thương, bảo giọng tôi khó nghe nhưng khi ngâm thơ lại khá hay. Đó không phải là sự cố chấp, cứ tỏ vẻ ta đây vẫn là quê, vẫn là gốc đấy.
Một ngọn gió qua sông Hồng cũng đậm chất Thăng Long
Từ trước đến nay nhiều văn nhân xứ Nghệ đã bồi đắp cho văn hóa Thăng Long - Hà Nội từ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ đến Xuân Diệu, Huy Cận... Họ là những người đã sống nhiều ở Hà Nội và tỏa sáng ở Thủ đô. Ông có nhận xét gì về điều này?
Khi còn 10 năm nữa là kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long HN, trong một cuộc hội thảo tôi đã từng nói: Đến một ngọn gió bay qua sông Hồng cũng đậm chất Thăng Long, đậm chất kinh thành.
Người ta rút ra rằng, không riêng gì HN mà bất kỳ một thủ đô nào có truyền thống bề dày lịch sử, những nhà văn hóa lớn, nhất là các nhà văn, nhà thơ thì dù ở đâu họ cũng trở về thủ đô.
Nguyễn Du từng viết: “Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long” (bạc đầu còn được thấy Thăng Long) thấy chốn đô thành trải thăng trầm lịch sử vẫn “do thị Thăng Long cựu đế kinh” (đây vẫn còn là Thăng Long kinh đô cũ), dẫu cảnh cũ người xưa đã lắm đổi thay theo sự biến thiên của dòng đời và thời cuộc… Tôi thấy Nguyễn như đang về đâu đó giữa Hà Nội những ngày đầu năm 2000, ông không ngủ, văng vẳng tiếng sáo dắt ông đi tìm lại một Thăng Long xưa trong một Hà Nội nay.
Tôi muốn tìm hiểu xem Hồ Văn, nơi mà Nguyễn Du được nghe cô gái ôm đàn cầm chơi để từ đó ông làm thành tuyệt tác Long Thành cầm giả ca. Đó là ví dụ về sự đóng góp của văn hóa vùng miền.
Theo ông, chất văn hóa đặc trưng nhất của HN là gì?
Chất văn hóa của HN đó là chất thủ đô, nó dung hòa và độc lập. Hay nói cách khác, sự tiếp kiến văn hóa nó đan xen với sụ dung hòa. Đó là một đặc trưng của văn hóa Thủ đô. Nhưng hiện nay chất dung hòa đó đang kém bộ lọc. Đời sống xã hội xô bồ, bát nháo nên cái cũ có thể bị mất đi, cái mới, cái tốt đẹp mới chưa được định hình, ổn định.
Thưa ông, nhìn lại Thủ đô, sau 60 năm kể từ ngày giải phóng 10/10/1954, có một dòng văn học vẫn chảy xuyên suốt, những thời điểm này có phải đang là quãng phẳng lặng không?
HN sau ngày 10/10/1954, tính đến nay đã 60 năm giải phóng, quãng thời gian đó có 20 năm là thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và 40 năm thủ đô của nước CHXHCN Việt Nam. Có thể nói đây là cái nôi của mọi hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật. Vừa rồi chúng tôi có cuộc gặp gỡ với những nhà văn nhà thơ trở về từ sau giải phóng thủ đô. Nhìn vào quang cảnh phố phường hiện nay, họ không khỏi ngậm ngùi, cảm hoài, tiếc nuối. Một HN đô thị có vẻ như đang mất mát, phai nhạt đi.
Dòng chảy văn học 60 năm ấy, nếu kể ra thành tựu thì vẫn kể được. Nhưng để trở thành một trung tâm văn hóa thủ đô, tôi chưa nói là đầu não, thì còn thiếu.
Hội Nhà văn Hà Nội có gần 600 hội viên, với vị thế Thủ đô mà 63 Hội văn nghệ của 63 tỉnh thành trong cả nước không có được. Nên chúng tôi làm gì cũng luôn cố gắng, từ việc trao giải thưởng, kết nạp hội viên, tổ chức các cuộc hội thảo.
Ví dụ: Xét giải thưởng không phải xét cho hội viên mà xét cho những những ai từng sống ở HN và có những tác phẩm xứng đáng. Cũng như chúng tôi tổ chức các cuộc hội thảo phải có vị thế. Tôi cho rằng, Hội có tính phong trào nhưng đó phải có tính thủ đô, chất thủ đô và tính đỉnh cao.
Chưa có tác phẩm đỉnh cao về Hà Nội
Sau quãng thời gian 60 năm nhìn lại, phải chăng những tác phẩm về HN đang ít đi, thưa ông?
Vừa rồi, dịp nhà văn Tô Hoài mất, tôi đã đề xuất sáng lập ra một giải thưởng Tô Hoài để trao giải cho những tác phẩm viết về HN dành cho những người sống ở HN và cả những nguười HN xa quê viết về HN. Hai năm trao giải một lần vào năm chẵn, đúng ngày sinh của Tô Hoài. Tuy nhiên do thời gian gấp quá nên vẫn chưa triển khai được. Chúng tôi đang cố gắng xây dựng để kịp trao giải vào nhiệm kỳ tới nhằm vinh danh nhà văn đích thực của HN, quê HN, có những đóng góp để đời cho HN. Đồng thời kích thích sự sáng tạo, đóng góp của họ...
Tôi đã định tổ chức một cuộc thi sáng tác văn xuôi, tiểu thuyết về HN. Theo tôi, mỗi người đều có một HN riêng của mình, dù là người ngụ cư, người chính gốc, những người ở các vùng miền khác đã từng đến HN.
Cũng phải thừa nhận rằng, những tác phẩm thực sự về HN, đỉnh cao để khi vừa nhắc đến người ta đã nhớ thì chưa có..
Thực tế thưa vắng tác phẩm đỉnh cao về Hà Nội phải chăng cũng có một nguyên nhân là HN đang kém hấp dẫn hơn, chất văn hóa đặc trưng đã loãng?
Nói về sự kém hấp dẫn Hà Nội có lẽ cũng đúng. Phải để ý một điều rằng, nếu các nhà văn viết về hoài niệm quá khứ thì không có vấn đề gì. Nhưng nếu để viết về một HN xô bồ, nhốn nháo như bây giờ thì có vẻ mang âm hưởng tiêu cực.
Những cây bút viết về HN thường là những người đã có tuổi, nhiều chiêm nghiệm. Còn các cây bút trẻ viết về Hà Nội thì khá hiếm?
Những cây bút trẻ bây giờ họ thường viết về chính họ. Khung cảnh của họ cũng vẫn là khung cảnh HN. Những tác giả trẻ có thể là những người từ Sài Gòn hay nơi khác ra HN để viết về HN. Những tác phẩm đó họ chú tâm vào khung cảnh tự nhiên nhiều hơn là chú tâm vào chính HN. Nhưng cũng có những nhà văn thiết tha với Hà Nội như nhà văn Trần Chiến, nhà văn Nguyễn Việt Hà viết cuốn “Con giai phố cổ”, hầu như chỉ quẩn quanh trên khu phố cổ, nhà thờ mà không ra khỏi thành phố. Đó là người đắm đuối về HN.
Làm ở HN điều gì khiến ông thích thú nhất?
Năm 1982, tôi ra quân. Trước đó, tôi đóng quân ở Sài Gòn. Cũng phân vân nên sống ở HN hay SG nhưng rồi HN lại kéo tôi ra. Hình như với tính cách, lối sống của tôi có vẻ tôi gần với HN hơn. Nếu so sánh HN và SG thì “HN là làng, còn SG là phố”, mà tính tôi lại hợp với làng hơn.
Tôi vẫn tự coi mình là con người của làng xã, mang nếp văn hóa làng xã. Hà Nội dẫu là thủ đô nhưng vẫn mang dáng dấp làng, “một cái làng lớn nhất” như cách nói của bà người Mỹ Lady Borton. Nhà sử học Trần Quốc Vượng có lần trả lời một bạn nước ngoài hỏi địa chỉ gửi thư cho ông đã nói vui rằng: cứ đề tên và địa chỉ Hà Nội là thư khắc đến. Hà Nội như một cái làng ấy mà, trong làng ngoài xóm ai cũng biết nhau cả, nhân viên bưu tá cầm thư là họ biết chuyển cho ai rồi. Nghe tiếng gọi của Hà Nội, qua tiếng gọi của bạn bè, khi cởi áo lính tôi đã trở về Hà Nội.
Chú bé ngày nào đã lớn và Hà Nội đã khác. Cả con người và thành phố đều đang cựa mình để thay đổi. Có một lớp cán bộ trẻ những ngày đầu về cơ quan, gạo chưa có phải ăn đong, nhà không có phải nằm bàn ngay tại phòng làm việc, nói không ngoa, hồi ấy đã có những đứa bé được bố mẹ chúng thụ thai trên chiếc bàn làm việc của cơ quan, vì cưới nhau rồi mà nhà ở không có. “Giai đoạn nằm bàn” không lâu nhưng đáng nhớ. Tôi biết mình đã được chịu đựng cùng Hà Nội.
Cái tôi thích nhất ở HN đó là thời tiết. Nó có 4 mùa, nó dễ dàng đồng điệu với tâm hồn mình, văn thơ.
Cái tôi không thích ở HN đó là cái quan hệ giữa người và người (nói như vậy có vẻ hơi nặng). Ngày xưa, người ta nói lịch sự như người HN, bây giờ người ta nói tự nhiên như người HN, suồng sã như người HN.
Xin cảm ơn ông.
Nguồn: Phùng Nguyên - TP
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.