Gặp gỡ Tưởng tượng

10:18 17/11/2021

MAURICE BLANCHOT    

Những Nhân ngư: dường như họ thực sự hát, nhưng theo một cách dang dở, cái cách mà chỉ cho một dấu hiệu về nơi những nguồn gốc thực sự và hạnh phúc thực sự của bài ca mở ra.

Ảnh: internet

Dẫu vậy, bằng những bài ca không hoàn hảo của mình, chỉ là một bài ca sắp tới, họ dẫn thủy thủ tới không gian nơi tiếng hát có thể thực sự bắt đầu. Họ, thực ra, không lừa anh: họ thực sự dẫn anh tới đích của mình. Nhưng điều gì xảy ra một khi nơi đó bị đặt chân tới? Nơi ấy là nơi đâu? Một nơi không gì còn lại ngoài sự biến mất, bởi vì âm nhạc, trong vùng của thanh âm và nguồn cội này, tự thân biến mất hoàn toàn hơn hết bất cứ nơi chốn nào trong thế giới: biển cả nơi, những đôi tai bị bưng kín, sinh vật đắm chìm, và nơi những Nhân ngư, như bằng chứng về thiện chí của mình, cũng có, một ngày, [rồi] biến mất.

Bản chất bài ca của những Nhân ngư là gì? Thiếu sót của nó nằm ở đâu? Tại sao thiếu sót này khiến nó đầy sức mạnh? Một số luôn trả lời rằng: nó là bài ca phi nhân tính - chắc chắn là một ồn ã của tự nhiên (có loại nào khác không?) nhưng ở ven rìa của tự nhiên, xa lạ theo cách có thể với con người, rất chậm chạp, và đánh thức trong anh cảm giác thống khoái trong trạng thái rơi mà anh không thể thỏa mãn ở những điều kiện thông thường của cuộc sống. Nhưng những người khác nói, khoái cảm ấy còn lạ lùng hơn thế: nó không làm gì ngoài việc sản sinh bài hát quen thuộc của con người, và bởi vì những Nhân ngư, chỉ là những động vật, hết sức xinh đẹp là bởi phản chiếu vẻ đẹp nữ tính, có thể ca hát như con người ca hát, họ khiến bài ca lạ lùng đến mức họ sinh ra trong bất cứ ai nghe thấy nó sự ngờ vực về tính phi nhân của mỗi bài hát của con người. Chính bởi nỗi tuyệt vọng, mà những kẻ mê tiếng hát của họ đi đến chỗ chết? Bởi một nỗi tuyệt vọng rất gần với cảm giác thống khoái. Có cái gì đó tuyệt vời trong bài ca có thực này, bài hát bí mật, thông thường, đơn giản và thường ngày, mà họ phải nhận ra ngay lập tức, được hát theo một cách phi thực bởi những sức mạnh xa lạ, thậm chí tưởng tượng, bài hát của vực thẳm, một khi được nghe thấy, sẽ mở ra một vực thẳm trong mỗi từ và vẫy gọi những ai nghe thấy nó biến mất vào trong nó.

Bài ca này, chúng ta phải nhớ rằng, nhắm đến những thủy thủ, những người mạo hiểm và cảm thấy những thôi thúc mạnh mẽ, và nó cũng là một phương tiện vượt biển: nó là một khoảng cách, và nó tiết lộ khả năng vượt qua khoảng cách ấy, [khả năng] biến bài ca thành sự chuyển động về phía bài ca, và [khả năng] biến chuyển động này thành biển hiện của khát vọng lớn lao nhất. Cuộc vượt biển lạ lùng, nhưng đi tới điểm dừng nào? Người ta luôn có thể nghĩ rằng những ai tiếp cận nó chỉ tới gần nó, và chết vì thiếu kiên nhẫn, vì họ thiếu chín chắn khẳng định rằng: đây rồi; đây, ở đây tôi sẽ thả neo. Theo những người khác, thì, ngược lại, đã quá muộn: đích đến đã bị vượt qua rồi; khoái cảm, bằng một lời hứa bí ẩn, đã đặt con người vào tình thế phản bội chính mình, phản bội bài ca thuộc về con người, và thậm chí phản bội bản chất của bài ca, bằng cách đánh thức hy vọng và khát vọng về thế giới bên kia tuyệt vời, thế giới bên kia ấy tượng trưng cho sa mạc mà thôi, như thể đất mẹ của âm nhạc là nơi duy nhất hoàn toàn bị tước mất âm nhạc, một nơi khô hạn và khô cằn nơi im lặng, giống như tiếng ồn, đã thiêu rụi, trong người từng có thiên hướng về nó, mọi hành lang dẫn tới bài ca. Vậy, có một nguyên tắc xấu xa trong lời mời gọi tới vực thẳm này ư? Những Nhân ngư, như truyền thống cố gắng thuyết phục chúng ta, phải chăng chỉ là những tiếng nói giả ngụy, không phải tuân theo trò lừa đảo của cám dỗ, điều chỉ những sinh vật bất trung và dối trá mới có thể kháng cự?

Luôn có một nỗ lực hơi hèn hạ giữa con người để gây tai tiếng cho những Nhân ngư bằng việc thẳng thừng buộc tội họ là dối trá: những kẻ dối trá khi họ hát, những kẻ lừa gạt khi họ thở, là tưởng tượng khi người ta chạm vào họ; ở mọi khía cạnh là phi tồn tại, với một phi tồn tại ấu trĩ mà sự khôn ngoan của Ulysses đủ để tiêu diệt.

Đúng, Ulysses đã chế ngự họ, nhưng theo cách nào? Ulysses, với sự ương bướng và khôn ngoan của mình, sự bội bạc của mình, khiến anh tận hưởng cuộc tiêu khiển của những Nhân ngư, mà không mạo hiểm và không chấp nhận hậu quả; sự hưởng thụ của anh ta là một hưởng thụ hèn nhát, chừng mực và bình tĩnh, thích hợp với Hy Lạp của một thời đại suy đồi văn hóa, đạo đức, kẻ sẽ không bao giờ xứng đáng là anh hùng của Iliad. Sự hèn nhát của anh ta là một hèn nhát may mắn và an toàn, dựa trên đặc quyền, đặt anh ta nằm ngoài điều kiện thông thường - những người khác không có quyền hưởng thụ sự may mắn của tầng lớp tinh hoa, mà chỉ có quyền tận hưởng niềm vui thích đứng trông chỉ huy của họ quằn quại một cách lố bịch, với những cái cau mặt vì đê mê giữa không gian, cũng là một quyền tận hưởng sự thỏa mãn được điều khiển ông chủ của họ (nghĩa là, chắc chắn bài học họ đã hiểu, bài hát thật sự của những Nhân ngư là dành cho họ). Thái độ của Ulysess, làm kinh ngạc sự điếc của những người điếc bởi vì anh ta đang lắng nghe, đủ để chuyển tới cho những Nhân ngư sự thất vọng được bảo lưu đến tận bây giờ đối với con người và biến họ thành những cô gái xinh đẹp, có thật, có thực một lần này duy nhất và xứng đáng với lời hứa của họ, bởi vậy có khả năng biến mất vào sự thật và sự sâu sắc của bài hát của họ.

Sau khi những Nhân ngư bị chế ngự bởi sức mạnh của kỹ xảo luôn cố gắng giỡn chơi một cách thận trọng với những sức mạnh (tràn đầy cảm hứng) phi thực, Ulysses vẫn chưa chấm dứt với họ. Họ vươn tới anh ta ở nơi anh không muốn ngã và, ẩn náu trong lòng Odyssey, nơi đã trở thành ngôi mộ của họ, họ lôi kéo anh ta, anh ta và nhiều người khác, vào cuộc vượt biển may, không may này, cuộc vượt biển của câu chuyện đó, bài ca không trực tiếp, mà được kể lại, do đó được khiến cho có vẻ vô hại: tụng ca trở thành khúc nhạc nền.

LUẬT LỆ BÍ MẬT CỦA TRẦN THUẬT

Đây không phải là một ngụ ngôn. Đây là cuộc đấu tranh mơ hồ đang tiến hành giữa bất cứ trần thuật nào và cuộc gặp gỡ với những Nhân ngư, bài ca bí ẩn đó đầy uy lực là bởi sự không hoàn hảo của nó. Chính là cuộc tranh đấu nơi sự khôn ngoan của Ulysses, bất kể sự thật của con người trong anh ta là gì - sự bí ẩn, thiên hướng ngoan cố không chơi trò chơi của những vị thần - luôn được sử dụng và làm cho hoàn hảo. Cái chúng ta gọi là tiểu thuyết được sinh thành từ cuộc đấu tranh này. Với tiểu thuyết, chuyến khởi hành được đặt thành trọng tâm, cái chuyến khởi hành đã đưa Ulysses tới nơi gặp gỡ. Chuyến đi này là một câu chuyện hoàn toàn của con người; nó quan tâm tới thời gian của con người, được nối kết với những đam mê của con người, nó thực sự xảy ra, và nó đủ giàu có và đủ đa dạng để hấp thụ tất cả sức mạnh và tất cả sự chú ý của người trần thuật. Bây giờ câu chuyện kể đó trở thành tiểu thuyết, còn xa mới có vẻ bị cạn kiệt, nó khoác lấy vẻ giàu có và phong nhiêu của một cuộc thám hiểm đôi khi ôm chứa một mênh mông đã giong buồm, đôi khi tự giới hạn mình trong ô nhỏ không gian trên khoang tàu, đôi khi rơi xuống lòng tàu nơi người ta chưa bao giờ biết đến hy vọng của biển cả. Khẩu hiệu bị áp lên những thủy thủ là khẩu hiệu này: bất cứ ám chỉ nào tới một cái đích hoặc một điểm đến phải bị loại trừ. Với lý do chính đáng, tất nhiên. Không ai có thể bắt đầu một chuyến đi với dự định đặt chân đến đảo Capraea, không ai có thể tiến thẳng tới hòn đảo này, và bất cứ ai đã quyết định tới đó vẫn sẽ tới đó thì chỉ là bởi tình cờ, một tình cờ mà anh ta được kết nối với nó bằng một nối kết khó hiểu. Khẩu hiệu bởi thế là im lặng, thận trọng, vô thức.

Chúng ta phải chấp nhận rằng sự khiêm nhường định sẵn, mong muốn nhắm tới không gì cả, đủ để khiến nhiều tiểu thuyết trở thành những cuốn sách đáng ca ngợi và tiểu thuyết trở thành thể loại dễ chịu nhất trong các thể loại, một thể loại trao cho mình nhiệm vụ quên lãng, bằng sự thận trọng và sự vô dụng một cách vui thích, nhiệm vụ mà những thể loại khác làm mất giá bằng cách gọi là thiết yếu. Sự chệch hướng là bài ca thâm trầm của nó. Cứ đổi hướng, khởi hành như thể tình cờ và tránh xa bất cứ đích đến nào, bằng một vận động của sự bất an đã bị biến thành sự lãng trí dễ chịu - đã là lời biện minh nguyên khởi và đảm bảo nhất của nó. Biến thời gian của con người thành trò chơi, và trò chơi thành một thứ nghề nghiệp tự do đã bị tước bỏ bất cứ sự hữu dụng và lợi ích trực tiếp nào, đặc biệt là tính cạn cợt và tài nghệ, thông qua vận động trên bề mặt này, nhưng cho dù thế lại hấp thu hết toàn bộ tồn tại - nghĩa là không phải là một thứ không đáng kể. Nhưng rõ ràng nếu tiểu thuyết ngày nay thiếu đi vai trò này, chính là vì kỹ thuật đã biến đổi thời gian của con người và những cách thức tồn tại của họ đã bị trệch khỏi nó.

Trần thuật bắt đầu nơi tiểu thuyết không đi tới nhưng vẫn dẫn đạo chúng ta bằng sự từ chối và sự lơ đãng dồi dào của nó. Trần thuật, một cách anh hùng và tự phụ, là trần thuật về một sự kiện duy nhất, trần thuật về cuộc gặp gỡ của Ulysses và bài ca lôi cuốn và không trọn vẹn của những Nhân ngư. Dường như, ngoài lời khẳng định ngây thơ và lớn lao này, chả có gì thay đổi, và trần thuật dường như, bằng hình thức của nó, tiếp tục đáp ứng thiên chức trần thuật thông thường. Bởi thế, Aurélia của Nerval hiện diện chỉ như là một trần thuật về một cuộc gặp gỡ, như Une saison en enfer [Một mùa ở địa ngục] của Rimbaud, và Nadja của Breton đã làm. Điều gì đó đã xảy ra, điều gì đó người ta đã trải qua và rồi kể về, như Ulysses cần trải qua sự kiện ấy và sống sót qua nó để trở thành Homer, người kể về anh ta. Đúng là trần thuật, nói chung, là trần thuật về một sự kiện ngoại lệ thoát khỏi những hình thức của thời gian hàng ngày và thế giới của sự thật thông thường, có lẽ là của tất cả các sự thật. Đó là lý do tại sao, hết sức kiên quyết, nó từ chối mọi thứ gắn nó với sự phù phiếm của một tác phẩm hư cấu (tiểu thuyết, trái lại, không nói điều gì cả trừ cái đáng tin và quen thuộc, [lại] rất muốn được chấp nhận là tác phẩm hư cấu). Trong Gorgias, Platon bảo rằng: “Nghe một câu chuyện hay. Anh sẽ nghĩ nó là một ngụ ngôn, nhưng theo tôi nó là một câu chuyện. Tôi sẽ kể anh nghe, với tư cách là sự thật, câu chuyện tôi sẽ kể cho anh ngay sau đây.” Câu chuyện ông thuật lại, tuy nhiên, lại là câu chuyện về Cuộc Phán xử Cuối cùng.

Nhưng bản chất của trần thuật không cách nào đoán trước được, khi người ta nhìn thấy trong nó sự thuật kể chân thật về một sự kiện khác thường, đã xảy ra và người ta có thể tường thuật. Trần thuật không phải sự thuật kể về một sự kiện mà là bản thân sự kiện, sự tiếp cận sự kiện này, nơi nó được yêu cầu phơi bày, một sự kiện chưa tới, bằng sức quyến rũ của cái sự kiện ấy bản thân trần thuật có thể hy vọng trở thành sự thật.

Đó là một mối quan hệ tinh tế, chắc chắc là một kiểu quá mức tinh vi, nhưng nó là luật lệ bí mật của trần thuật. Trần thuật là một vận động hướng về một điểm - một điểm không chỉ không được biết đến, bị ngó lơ, và xa lạ, mà ở một chừng mực nó dường như, thậm chí trước và bên ngoài vận động này, còn không có kiểu hiện thực nào; nhưng là một điểm độc đoán đến mức chỉ từ riêng mình điểm này mà thôi trần thuật mới tìm thấy sự hấp dẫn của nó, theo cái cách nó không thể thậm chí “bắt đầu” trước khi nó chạm tới điểm ấy; nhưng chỉ trần thuật và vận động không thể thấy trước của trần thuật mới cung cấp không gian nơi điểm ấy trở thành thật, mạnh mẽ và quyến rũ.

KHI ULYSSES TRỞ THÀNH HOMER

Điều gì sẽ xảy ra nếu, thay vì trở thành những người riêng biệt thuận tiện chia sẻ những vai trò của mình, Ulysses và Homer là một người duy nhất? Nếu trần thuật của Homer không là gì cả ngoài vận động được hoàn thành bởi Ulysses trong lòng không gian mà Bài ca của những Nhân ngư mở ra cho anh? Nếu Homer có thể thuật kể chỉ khi, dưới danh nghĩa của Ulysses, một Ulysses đã thoát khỏi gông cùm nhưng bị lắng chìm, anh ta đi tới nơi khả năng nói và thuật kể dường như đã hứa hẹn với anh, với điều kiện anh biến mất trong nó?

Đó là một trong những phẩm chất kỳ lạ, hay chúng ta nên nói là một trong những mục đích, của trần thuật. Nó chỉ “thuật kể” chính mình, và đồng thời khi sự thuật kể này xảy ra, nó sản sinh cái nó thuật lại, cái có khả năng tồn tại với tư cách một tường thuật chỉ khi nó hiện thực hóa sự việc xảy ra trong tường thuật này, từ lúc đó trần thuật sở hữu một thời điểm hay một cốt truyện nơi hiện thực mà trần thuật “miêu tả” có thể không ngừng hợp nhất với hiện thực có tư cách như một trần thuật của mình, có thể đảm bảo trần thuật và tìm thấy trong trần thuật sự đảm bảo của mình.

Nhưng không phải điều này điên rồ một cách ngây thơ ư? Theo một nghĩa nào đó. Đó là lý do tại sao không có trần thuật, là lý do tại sao không thiếu trần thuật.

Để nghe Bài ca của Nhân ngư, anh ta phải ngừng là Ulysses và trở thành Homer, nhưng chỉ trong trần thuật của Homer mà cuộc gặp gỡ thật sự xảy ra nơi Ulysses trở thành kẻ bước vào mối quan hệ với sức mạnh của những yếu tố tự nhiên và tiếng nói của vực thẳm.

Điều ấy có vẻ mơ hồ; nó gợi lên tình thế khó khăn của người nguyên thủy, như là, để được tạo sinh, anh ta tự thân cần được nói, theo một cách hoàn toàn con người, [nhưng] câu nói Fiat lux1 [Phải có sự sáng] thần thánh [mới] có thể mở mắt anh ta.

Cách trình bày như thế này về những điều ấy, thực ra, đơn giản hóa chúng rất nhiều: kết quả là sự phức tạp mang tính lý thuyết hoặc giả tạo nổi lên từ nó. Thực sự là chỉ trong sách của Melville mà Ahab chạm trán Moby Dick; nhưng cũng đúng là chỉ cuộc đụng độ này cho phép Melville viết cuốn sách, một cuộc gặp gỡ độc nhất vô nhị, thái quá, choáng ngợp như thế vượt trên tất cả chừng mực mà nó xảy ra, tất cả những thời khắc người ta muốn đặt nó vào; nó dường như đã xảy ra xong xuôi trước khi cuốn sách bắt đầu, nhưng ở một chừng mực nào đó nó cũng có thể xảy ra chỉ một lần, trong tương lai của cuốn sách, trong biển cả tác phẩm đó sẽ trở thành, một đại dương bao la.

Giữa Ahab và cá voi diễn ra một vở kịch có thể gọi là siêu hình theo nghĩa mơ hồ của từ này, cuộc đấu tranh tương tự cũng xảy ra giữa những Nhân ngư và Ulysses. Mỗi người trong hai cặp đôi này muốn là tất cả, muốn là thế giới tuyệt đối, điều ấy khiến sự chung sống với thế giới tuyệt đối còn lại trở thành bất khả; nhưng mỗi người họ lại không có khao khát nào lớn hơn chính cuộc sống chung này, cuộc gặp gỡ này. Hợp nhất trong cùng một không gian Ahab và cá voi, Nhân ngư và Ulysses - đó là ước muốn bí mật biến Ulysses thành Homer, biến Ahab thành Melville, và biến cái thế giới là kết quả của cuộc hợp nhất này thành thế giới đẹp nhất, kinh khủng nhất và vĩ đại nhất trong những khả thể thế giới, trời ơi [ấy là] một cuốn sách, không gì ngoài một cuốn sách.

Giữa Ahab và Ulysses, kẻ ham muốn quyền lực nhất không phải là người mất kiểm soát nhất. Ở Ulysses, sự bám chặt đã lên kế hoạch trước dẫn tới sự kiểm soát hoàn toàn: thủ đoạn của anh dường như hạn chế khả năng của anh, tìm kiếm một cách lạnh lùng và với sự cân nhắc điều anh có thể vẫn làm, đã phải đối mặt với cái quyền lực còn lại. Anh ta sẽ là mọi thứ, nếu anh ta giữ một giới hạn, một khoảng cách giữa hiện thực và tưởng tượng, chính là cái khoảng cách Bài ca của Nhân ngư mời anh ta vượt qua. Kết quả là một kiểu chiến thắng cho anh ta, thảm họa u ám cho Ahab. Chúng ta không thể phủ nhận rằng Ulysses đã nghe thấy đôi chút những gì Ahab đã nhìn thấy, nhưng anh bám chặt trong lúc nghe, trong khi Ahab đánh mất mình trong hình ảnh. Người này đã tự phủ nhận sự hóa thân mà kẻ kia hiểu và biến mất vào đó. Sau thử thách, Ulysses thấy mình như cũ, và người ta thấy rằng thế giới có lẽ nghèo nàn hơn, nhưng vững chắc hơn và đảm bảo hơn. Ahab không tìm thấy mình nữa và, với chính Melville, thế giới không ngừng đe dọa chìm vào không gian phi thế giới mà sự mê hoặc của một hình ảnh kéo nhà văn vào.

HÓA THÂN

Trần thuật được kết nối với hóa thân mà Ulysses và Ahab ám chỉ. Hành động mà trần thuật biến thành thì hiện tại là hành động của hóa thân trên tất cả các mức độ nó có thể giành được. Nếu, vì sự thuận tiện - vì khẳng định này không chính xác - chúng ta nói rằng cái đẩy tiểu thuyết về phía trước là thời gian thường ngày, thuộc về tập thể hoặc của riêng cá nhân, hay chính xác hơn, là cái mong muốn biểu đạt thời gian, do đó, để tiến lên, trần thuật có thời gian khác, chuyến đi khác, sự chuyển từ bài ca có thật sang bài ca tưởng tượng, sự vận động khiến bài ca có thực, từng chút một mặc dù ngay lập tức (và “từng chút một mặc dù ngay lập tức này” chính là thời gian của hóa thân), trở thành bài ca bí ẩn, tưởng tượng, thứ mà luôn luôn xa cách, và thứ mà chỉ định khoảng cách này như một không gian để du hành, và nơi nó dẫn tới như một điểm tiếng ca có thể thôi là một cám dỗ.

Trần thuật có thể du hành trong không gian này, và điều lay động nó là sự biến đổi, mà sự tròn đầy trống rỗng của không gian này yêu cầu, một biến đổi, hành động ở mọi chiều hướng, tất nhiên một cách mạnh mẽ biến đổi người viết, nhưng biến đổi bản thân trần thuật không ít hơn, và [biến đổi] tất cả những gì đang hoạt động trong lòng trần thuật, nơi theo nghĩa nào đó không gì xảy ra cả trừ chính sự biến đổi này. Nhưng, với Melville, sự biến đổi ấy, ở đó, còn quan trọng hơn cuộc gặp gỡ với Moby Dick, một cuộc gặp gỡ xảy ra bây giờ, và “đồng thời” luôn luôn còn [đang] tới, nên ông không ngừng đi tới nó bằng một cuộc đeo đuổi hỗn loạn và không nao núng, nhưng bởi vì nó dường như có một mối quan hệ với nguồn cội, nó cũng dường như trả ông lại với sự thâm trầm của quá khứ: một trải nghiệm mà dưới sự mê hoặc của nó Proust đã sống và phần nào thành công trong sự viết.

Một số sẽ phản đối: sự kiện mà họ nói về trước nhất thuộc về “cuộc sống” của Melville, của Nerval, của Proust. Đó là bởi họ đã gặp gỡ Aurélia, bởi vì họ bị vấp trên mặt đường mấp mô, đã nhìn thấy ba gác chuông [những thứ] mà trước nhất ép họ viết về mình. Họ sử dụng nhiều nghệ thuật để truyền tải những ấn tượng thực sự của họ cho chúng ta, và họ là những nghệ sĩ là bởi họ nhận thấy sự ngang hàng - của hình thức, hình ảnh, câu chuyện, hoặc những ngôn từ - khiến chúng ta tham gia vào ảo ảnh gần gũi với ảo ảnh của họ. Những thứ ấy thật không may lại không quá đơn giản. Tất cả những mơ hồ khởi phát từ sự mơ hồ của thời gian, thứ có hiệu lực ở đây, và thứ cho phép chúng ta nói và cảm nhận rằng hình ảnh mê hoặc của trải nghiệm ấy là, vào một thời điểm nào đó, ở thì hiện tại, trong khi sự hiện diện này không thuộc vào bất cứ hiện tại nào, và thậm chí phá hủy cái hiện tại mà nó dường như gia nhập vào. Đúng là, Ulysses thực sự đã ra khơi, và, một ngày, vào một ngày nào đó, anh ta chạm trán bài hát bí ẩn ấy. Anh ta bởi thế có thể nói rằng: bây giờ, chuyện này đang xảy ra bây giờ. Nhưng điều gì xảy ra bây giờ? Sự hiện diện của bài hát vẫn chỉ sắp tới. Và điều gì anh chạm vào ở thời khắc hiện tại? Không phải là tình huống cuộc gặp gỡ ấy trở thành hiện tại, mà là sự mở đầu của vận động vô tận này, thứ là bản thân cuộc gặp gỡ ấy, một cuộc gặp gỡ luôn tách khỏi nơi chốn và khoảnh khắc trong đó nó được nói ra, vì nó là chính sự tách biệt này, khoảng cách tưởng tượng này, nơi sự vắng mặt được hiện thực hóa và chỉ ở sau rốt của khoảng cách ấy sự kiện đó mới bắt đầu xảy ra, một điểm nơi sự thật thực sự của cuộc gặp gỡ xảy ra, từ chốn đấy, trong bất cứ trường hợp nào, ngôn ngữ biểu đạt nó muốn được sinh thành.

Luôn sắp tới, luôn đã quá khứ rồi, luôn hiện tại trong một bắt đầu quá đột ngột đến mức bóp nghẹt hơi thở của anh, dù vậy vẫn giong buồm như một cuộc trở về và một bắt đầu vĩnh viễn ban đầu - “A,” Goethe bảo, “ở những thời nào đã sống trước đây, cô đã là chị hoặc vợ tôi” - Đó là sự kiện mà trần thuật là một tiếp cận tới. Sự kiện này lật nhào những vững chắc của thời gian, nhưng vẫn khẳng định thời gian, một cách đặc biệt để thời gian được hoàn thành, thời gian thuộc về riêng trần thuật, thứ dính líu đến cuộc sống đã sống của người trần thuật theo cái cách biến đổi nó, thời gian của những hóa thân nơi, trong một đồng thời tưởng tượng và dưới hình thức của một không gian mà nghệ thuật cố gắng tả thực, những trạng thái thống khoái khác nhau thuộc về thời gian cùng lúc xảy ra.

Đoàn Huyền dịch
Dịch từ tiểu luận Encountering the Imaginary, in trong tập The Book to Come, Maurice Blanchot, Charlotte Mandell chuyển dịch sang Anh ngữ, Stanford University Press, 2003, (page 3 - 10).  
(TCSH392/10-2021)


------------------------------------------------------
1. Lời của Chúa trong Kinh thánh: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng lên trời đất… Đức Chúa Trời phán rằng: Phải có sự sáng; thì có sự sáng.” (Nd).  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?