MAURICE BLANCHOT
Những Nhân ngư: dường như họ thực sự hát, nhưng theo một cách dang dở, cái cách mà chỉ cho một dấu hiệu về nơi những nguồn gốc thực sự và hạnh phúc thực sự của bài ca mở ra.
Ảnh: internet
Dẫu vậy, bằng những bài ca không hoàn hảo của mình, chỉ là một bài ca sắp tới, họ dẫn thủy thủ tới không gian nơi tiếng hát có thể thực sự bắt đầu. Họ, thực ra, không lừa anh: họ thực sự dẫn anh tới đích của mình. Nhưng điều gì xảy ra một khi nơi đó bị đặt chân tới? Nơi ấy là nơi đâu? Một nơi không gì còn lại ngoài sự biến mất, bởi vì âm nhạc, trong vùng của thanh âm và nguồn cội này, tự thân biến mất hoàn toàn hơn hết bất cứ nơi chốn nào trong thế giới: biển cả nơi, những đôi tai bị bưng kín, sinh vật đắm chìm, và nơi những Nhân ngư, như bằng chứng về thiện chí của mình, cũng có, một ngày, [rồi] biến mất.
Bản chất bài ca của những Nhân ngư là gì? Thiếu sót của nó nằm ở đâu? Tại sao thiếu sót này khiến nó đầy sức mạnh? Một số luôn trả lời rằng: nó là bài ca phi nhân tính - chắc chắn là một ồn ã của tự nhiên (có loại nào khác không?) nhưng ở ven rìa của tự nhiên, xa lạ theo cách có thể với con người, rất chậm chạp, và đánh thức trong anh cảm giác thống khoái trong trạng thái rơi mà anh không thể thỏa mãn ở những điều kiện thông thường của cuộc sống. Nhưng những người khác nói, khoái cảm ấy còn lạ lùng hơn thế: nó không làm gì ngoài việc sản sinh bài hát quen thuộc của con người, và bởi vì những Nhân ngư, chỉ là những động vật, hết sức xinh đẹp là bởi phản chiếu vẻ đẹp nữ tính, có thể ca hát như con người ca hát, họ khiến bài ca lạ lùng đến mức họ sinh ra trong bất cứ ai nghe thấy nó sự ngờ vực về tính phi nhân của mỗi bài hát của con người. Chính bởi nỗi tuyệt vọng, mà những kẻ mê tiếng hát của họ đi đến chỗ chết? Bởi một nỗi tuyệt vọng rất gần với cảm giác thống khoái. Có cái gì đó tuyệt vời trong bài ca có thực này, bài hát bí mật, thông thường, đơn giản và thường ngày, mà họ phải nhận ra ngay lập tức, được hát theo một cách phi thực bởi những sức mạnh xa lạ, thậm chí tưởng tượng, bài hát của vực thẳm, một khi được nghe thấy, sẽ mở ra một vực thẳm trong mỗi từ và vẫy gọi những ai nghe thấy nó biến mất vào trong nó.
Bài ca này, chúng ta phải nhớ rằng, nhắm đến những thủy thủ, những người mạo hiểm và cảm thấy những thôi thúc mạnh mẽ, và nó cũng là một phương tiện vượt biển: nó là một khoảng cách, và nó tiết lộ khả năng vượt qua khoảng cách ấy, [khả năng] biến bài ca thành sự chuyển động về phía bài ca, và [khả năng] biến chuyển động này thành biển hiện của khát vọng lớn lao nhất. Cuộc vượt biển lạ lùng, nhưng đi tới điểm dừng nào? Người ta luôn có thể nghĩ rằng những ai tiếp cận nó chỉ tới gần nó, và chết vì thiếu kiên nhẫn, vì họ thiếu chín chắn khẳng định rằng: đây rồi; đây, ở đây tôi sẽ thả neo. Theo những người khác, thì, ngược lại, đã quá muộn: đích đến đã bị vượt qua rồi; khoái cảm, bằng một lời hứa bí ẩn, đã đặt con người vào tình thế phản bội chính mình, phản bội bài ca thuộc về con người, và thậm chí phản bội bản chất của bài ca, bằng cách đánh thức hy vọng và khát vọng về thế giới bên kia tuyệt vời, thế giới bên kia ấy tượng trưng cho sa mạc mà thôi, như thể đất mẹ của âm nhạc là nơi duy nhất hoàn toàn bị tước mất âm nhạc, một nơi khô hạn và khô cằn nơi im lặng, giống như tiếng ồn, đã thiêu rụi, trong người từng có thiên hướng về nó, mọi hành lang dẫn tới bài ca. Vậy, có một nguyên tắc xấu xa trong lời mời gọi tới vực thẳm này ư? Những Nhân ngư, như truyền thống cố gắng thuyết phục chúng ta, phải chăng chỉ là những tiếng nói giả ngụy, không phải tuân theo trò lừa đảo của cám dỗ, điều chỉ những sinh vật bất trung và dối trá mới có thể kháng cự?
Luôn có một nỗ lực hơi hèn hạ giữa con người để gây tai tiếng cho những Nhân ngư bằng việc thẳng thừng buộc tội họ là dối trá: những kẻ dối trá khi họ hát, những kẻ lừa gạt khi họ thở, là tưởng tượng khi người ta chạm vào họ; ở mọi khía cạnh là phi tồn tại, với một phi tồn tại ấu trĩ mà sự khôn ngoan của Ulysses đủ để tiêu diệt.
Đúng, Ulysses đã chế ngự họ, nhưng theo cách nào? Ulysses, với sự ương bướng và khôn ngoan của mình, sự bội bạc của mình, khiến anh tận hưởng cuộc tiêu khiển của những Nhân ngư, mà không mạo hiểm và không chấp nhận hậu quả; sự hưởng thụ của anh ta là một hưởng thụ hèn nhát, chừng mực và bình tĩnh, thích hợp với Hy Lạp của một thời đại suy đồi văn hóa, đạo đức, kẻ sẽ không bao giờ xứng đáng là anh hùng của Iliad. Sự hèn nhát của anh ta là một hèn nhát may mắn và an toàn, dựa trên đặc quyền, đặt anh ta nằm ngoài điều kiện thông thường - những người khác không có quyền hưởng thụ sự may mắn của tầng lớp tinh hoa, mà chỉ có quyền tận hưởng niềm vui thích đứng trông chỉ huy của họ quằn quại một cách lố bịch, với những cái cau mặt vì đê mê giữa không gian, cũng là một quyền tận hưởng sự thỏa mãn được điều khiển ông chủ của họ (nghĩa là, chắc chắn bài học họ đã hiểu, bài hát thật sự của những Nhân ngư là dành cho họ). Thái độ của Ulysess, làm kinh ngạc sự điếc của những người điếc bởi vì anh ta đang lắng nghe, đủ để chuyển tới cho những Nhân ngư sự thất vọng được bảo lưu đến tận bây giờ đối với con người và biến họ thành những cô gái xinh đẹp, có thật, có thực một lần này duy nhất và xứng đáng với lời hứa của họ, bởi vậy có khả năng biến mất vào sự thật và sự sâu sắc của bài hát của họ.
Sau khi những Nhân ngư bị chế ngự bởi sức mạnh của kỹ xảo luôn cố gắng giỡn chơi một cách thận trọng với những sức mạnh (tràn đầy cảm hứng) phi thực, Ulysses vẫn chưa chấm dứt với họ. Họ vươn tới anh ta ở nơi anh không muốn ngã và, ẩn náu trong lòng Odyssey, nơi đã trở thành ngôi mộ của họ, họ lôi kéo anh ta, anh ta và nhiều người khác, vào cuộc vượt biển may, không may này, cuộc vượt biển của câu chuyện đó, bài ca không trực tiếp, mà được kể lại, do đó được khiến cho có vẻ vô hại: tụng ca trở thành khúc nhạc nền.
LUẬT LỆ BÍ MẬT CỦA TRẦN THUẬT
Đây không phải là một ngụ ngôn. Đây là cuộc đấu tranh mơ hồ đang tiến hành giữa bất cứ trần thuật nào và cuộc gặp gỡ với những Nhân ngư, bài ca bí ẩn đó đầy uy lực là bởi sự không hoàn hảo của nó. Chính là cuộc tranh đấu nơi sự khôn ngoan của Ulysses, bất kể sự thật của con người trong anh ta là gì - sự bí ẩn, thiên hướng ngoan cố không chơi trò chơi của những vị thần - luôn được sử dụng và làm cho hoàn hảo. Cái chúng ta gọi là tiểu thuyết được sinh thành từ cuộc đấu tranh này. Với tiểu thuyết, chuyến khởi hành được đặt thành trọng tâm, cái chuyến khởi hành đã đưa Ulysses tới nơi gặp gỡ. Chuyến đi này là một câu chuyện hoàn toàn của con người; nó quan tâm tới thời gian của con người, được nối kết với những đam mê của con người, nó thực sự xảy ra, và nó đủ giàu có và đủ đa dạng để hấp thụ tất cả sức mạnh và tất cả sự chú ý của người trần thuật. Bây giờ câu chuyện kể đó trở thành tiểu thuyết, còn xa mới có vẻ bị cạn kiệt, nó khoác lấy vẻ giàu có và phong nhiêu của một cuộc thám hiểm đôi khi ôm chứa một mênh mông đã giong buồm, đôi khi tự giới hạn mình trong ô nhỏ không gian trên khoang tàu, đôi khi rơi xuống lòng tàu nơi người ta chưa bao giờ biết đến hy vọng của biển cả. Khẩu hiệu bị áp lên những thủy thủ là khẩu hiệu này: bất cứ ám chỉ nào tới một cái đích hoặc một điểm đến phải bị loại trừ. Với lý do chính đáng, tất nhiên. Không ai có thể bắt đầu một chuyến đi với dự định đặt chân đến đảo Capraea, không ai có thể tiến thẳng tới hòn đảo này, và bất cứ ai đã quyết định tới đó vẫn sẽ tới đó thì chỉ là bởi tình cờ, một tình cờ mà anh ta được kết nối với nó bằng một nối kết khó hiểu. Khẩu hiệu bởi thế là im lặng, thận trọng, vô thức.
Chúng ta phải chấp nhận rằng sự khiêm nhường định sẵn, mong muốn nhắm tới không gì cả, đủ để khiến nhiều tiểu thuyết trở thành những cuốn sách đáng ca ngợi và tiểu thuyết trở thành thể loại dễ chịu nhất trong các thể loại, một thể loại trao cho mình nhiệm vụ quên lãng, bằng sự thận trọng và sự vô dụng một cách vui thích, nhiệm vụ mà những thể loại khác làm mất giá bằng cách gọi là thiết yếu. Sự chệch hướng là bài ca thâm trầm của nó. Cứ đổi hướng, khởi hành như thể tình cờ và tránh xa bất cứ đích đến nào, bằng một vận động của sự bất an đã bị biến thành sự lãng trí dễ chịu - đã là lời biện minh nguyên khởi và đảm bảo nhất của nó. Biến thời gian của con người thành trò chơi, và trò chơi thành một thứ nghề nghiệp tự do đã bị tước bỏ bất cứ sự hữu dụng và lợi ích trực tiếp nào, đặc biệt là tính cạn cợt và tài nghệ, thông qua vận động trên bề mặt này, nhưng cho dù thế lại hấp thu hết toàn bộ tồn tại - nghĩa là không phải là một thứ không đáng kể. Nhưng rõ ràng nếu tiểu thuyết ngày nay thiếu đi vai trò này, chính là vì kỹ thuật đã biến đổi thời gian của con người và những cách thức tồn tại của họ đã bị trệch khỏi nó.
Trần thuật bắt đầu nơi tiểu thuyết không đi tới nhưng vẫn dẫn đạo chúng ta bằng sự từ chối và sự lơ đãng dồi dào của nó. Trần thuật, một cách anh hùng và tự phụ, là trần thuật về một sự kiện duy nhất, trần thuật về cuộc gặp gỡ của Ulysses và bài ca lôi cuốn và không trọn vẹn của những Nhân ngư. Dường như, ngoài lời khẳng định ngây thơ và lớn lao này, chả có gì thay đổi, và trần thuật dường như, bằng hình thức của nó, tiếp tục đáp ứng thiên chức trần thuật thông thường. Bởi thế, Aurélia của Nerval hiện diện chỉ như là một trần thuật về một cuộc gặp gỡ, như Une saison en enfer [Một mùa ở địa ngục] của Rimbaud, và Nadja của Breton đã làm. Điều gì đó đã xảy ra, điều gì đó người ta đã trải qua và rồi kể về, như Ulysses cần trải qua sự kiện ấy và sống sót qua nó để trở thành Homer, người kể về anh ta. Đúng là trần thuật, nói chung, là trần thuật về một sự kiện ngoại lệ thoát khỏi những hình thức của thời gian hàng ngày và thế giới của sự thật thông thường, có lẽ là của tất cả các sự thật. Đó là lý do tại sao, hết sức kiên quyết, nó từ chối mọi thứ gắn nó với sự phù phiếm của một tác phẩm hư cấu (tiểu thuyết, trái lại, không nói điều gì cả trừ cái đáng tin và quen thuộc, [lại] rất muốn được chấp nhận là tác phẩm hư cấu). Trong Gorgias, Platon bảo rằng: “Nghe một câu chuyện hay. Anh sẽ nghĩ nó là một ngụ ngôn, nhưng theo tôi nó là một câu chuyện. Tôi sẽ kể anh nghe, với tư cách là sự thật, câu chuyện tôi sẽ kể cho anh ngay sau đây.” Câu chuyện ông thuật lại, tuy nhiên, lại là câu chuyện về Cuộc Phán xử Cuối cùng.
Nhưng bản chất của trần thuật không cách nào đoán trước được, khi người ta nhìn thấy trong nó sự thuật kể chân thật về một sự kiện khác thường, đã xảy ra và người ta có thể tường thuật. Trần thuật không phải sự thuật kể về một sự kiện mà là bản thân sự kiện, sự tiếp cận sự kiện này, nơi nó được yêu cầu phơi bày, một sự kiện chưa tới, bằng sức quyến rũ của cái sự kiện ấy bản thân trần thuật có thể hy vọng trở thành sự thật.
Đó là một mối quan hệ tinh tế, chắc chắc là một kiểu quá mức tinh vi, nhưng nó là luật lệ bí mật của trần thuật. Trần thuật là một vận động hướng về một điểm - một điểm không chỉ không được biết đến, bị ngó lơ, và xa lạ, mà ở một chừng mực nó dường như, thậm chí trước và bên ngoài vận động này, còn không có kiểu hiện thực nào; nhưng là một điểm độc đoán đến mức chỉ từ riêng mình điểm này mà thôi trần thuật mới tìm thấy sự hấp dẫn của nó, theo cái cách nó không thể thậm chí “bắt đầu” trước khi nó chạm tới điểm ấy; nhưng chỉ trần thuật và vận động không thể thấy trước của trần thuật mới cung cấp không gian nơi điểm ấy trở thành thật, mạnh mẽ và quyến rũ.
KHI ULYSSES TRỞ THÀNH HOMER
Điều gì sẽ xảy ra nếu, thay vì trở thành những người riêng biệt thuận tiện chia sẻ những vai trò của mình, Ulysses và Homer là một người duy nhất? Nếu trần thuật của Homer không là gì cả ngoài vận động được hoàn thành bởi Ulysses trong lòng không gian mà Bài ca của những Nhân ngư mở ra cho anh? Nếu Homer có thể thuật kể chỉ khi, dưới danh nghĩa của Ulysses, một Ulysses đã thoát khỏi gông cùm nhưng bị lắng chìm, anh ta đi tới nơi khả năng nói và thuật kể dường như đã hứa hẹn với anh, với điều kiện anh biến mất trong nó?
Đó là một trong những phẩm chất kỳ lạ, hay chúng ta nên nói là một trong những mục đích, của trần thuật. Nó chỉ “thuật kể” chính mình, và đồng thời khi sự thuật kể này xảy ra, nó sản sinh cái nó thuật lại, cái có khả năng tồn tại với tư cách một tường thuật chỉ khi nó hiện thực hóa sự việc xảy ra trong tường thuật này, từ lúc đó trần thuật sở hữu một thời điểm hay một cốt truyện nơi hiện thực mà trần thuật “miêu tả” có thể không ngừng hợp nhất với hiện thực có tư cách như một trần thuật của mình, có thể đảm bảo trần thuật và tìm thấy trong trần thuật sự đảm bảo của mình.
Nhưng không phải điều này điên rồ một cách ngây thơ ư? Theo một nghĩa nào đó. Đó là lý do tại sao không có trần thuật, là lý do tại sao không thiếu trần thuật.
Để nghe Bài ca của Nhân ngư, anh ta phải ngừng là Ulysses và trở thành Homer, nhưng chỉ trong trần thuật của Homer mà cuộc gặp gỡ thật sự xảy ra nơi Ulysses trở thành kẻ bước vào mối quan hệ với sức mạnh của những yếu tố tự nhiên và tiếng nói của vực thẳm.
Điều ấy có vẻ mơ hồ; nó gợi lên tình thế khó khăn của người nguyên thủy, như là, để được tạo sinh, anh ta tự thân cần được nói, theo một cách hoàn toàn con người, [nhưng] câu nói Fiat lux1 [Phải có sự sáng] thần thánh [mới] có thể mở mắt anh ta.
Cách trình bày như thế này về những điều ấy, thực ra, đơn giản hóa chúng rất nhiều: kết quả là sự phức tạp mang tính lý thuyết hoặc giả tạo nổi lên từ nó. Thực sự là chỉ trong sách của Melville mà Ahab chạm trán Moby Dick; nhưng cũng đúng là chỉ cuộc đụng độ này cho phép Melville viết cuốn sách, một cuộc gặp gỡ độc nhất vô nhị, thái quá, choáng ngợp như thế vượt trên tất cả chừng mực mà nó xảy ra, tất cả những thời khắc người ta muốn đặt nó vào; nó dường như đã xảy ra xong xuôi trước khi cuốn sách bắt đầu, nhưng ở một chừng mực nào đó nó cũng có thể xảy ra chỉ một lần, trong tương lai của cuốn sách, trong biển cả tác phẩm đó sẽ trở thành, một đại dương bao la.
Giữa Ahab và cá voi diễn ra một vở kịch có thể gọi là siêu hình theo nghĩa mơ hồ của từ này, cuộc đấu tranh tương tự cũng xảy ra giữa những Nhân ngư và Ulysses. Mỗi người trong hai cặp đôi này muốn là tất cả, muốn là thế giới tuyệt đối, điều ấy khiến sự chung sống với thế giới tuyệt đối còn lại trở thành bất khả; nhưng mỗi người họ lại không có khao khát nào lớn hơn chính cuộc sống chung này, cuộc gặp gỡ này. Hợp nhất trong cùng một không gian Ahab và cá voi, Nhân ngư và Ulysses - đó là ước muốn bí mật biến Ulysses thành Homer, biến Ahab thành Melville, và biến cái thế giới là kết quả của cuộc hợp nhất này thành thế giới đẹp nhất, kinh khủng nhất và vĩ đại nhất trong những khả thể thế giới, trời ơi [ấy là] một cuốn sách, không gì ngoài một cuốn sách.
Giữa Ahab và Ulysses, kẻ ham muốn quyền lực nhất không phải là người mất kiểm soát nhất. Ở Ulysses, sự bám chặt đã lên kế hoạch trước dẫn tới sự kiểm soát hoàn toàn: thủ đoạn của anh dường như hạn chế khả năng của anh, tìm kiếm một cách lạnh lùng và với sự cân nhắc điều anh có thể vẫn làm, đã phải đối mặt với cái quyền lực còn lại. Anh ta sẽ là mọi thứ, nếu anh ta giữ một giới hạn, một khoảng cách giữa hiện thực và tưởng tượng, chính là cái khoảng cách Bài ca của Nhân ngư mời anh ta vượt qua. Kết quả là một kiểu chiến thắng cho anh ta, thảm họa u ám cho Ahab. Chúng ta không thể phủ nhận rằng Ulysses đã nghe thấy đôi chút những gì Ahab đã nhìn thấy, nhưng anh bám chặt trong lúc nghe, trong khi Ahab đánh mất mình trong hình ảnh. Người này đã tự phủ nhận sự hóa thân mà kẻ kia hiểu và biến mất vào đó. Sau thử thách, Ulysses thấy mình như cũ, và người ta thấy rằng thế giới có lẽ nghèo nàn hơn, nhưng vững chắc hơn và đảm bảo hơn. Ahab không tìm thấy mình nữa và, với chính Melville, thế giới không ngừng đe dọa chìm vào không gian phi thế giới mà sự mê hoặc của một hình ảnh kéo nhà văn vào.
HÓA THÂN
Trần thuật được kết nối với hóa thân mà Ulysses và Ahab ám chỉ. Hành động mà trần thuật biến thành thì hiện tại là hành động của hóa thân trên tất cả các mức độ nó có thể giành được. Nếu, vì sự thuận tiện - vì khẳng định này không chính xác - chúng ta nói rằng cái đẩy tiểu thuyết về phía trước là thời gian thường ngày, thuộc về tập thể hoặc của riêng cá nhân, hay chính xác hơn, là cái mong muốn biểu đạt thời gian, do đó, để tiến lên, trần thuật có thời gian khác, chuyến đi khác, sự chuyển từ bài ca có thật sang bài ca tưởng tượng, sự vận động khiến bài ca có thực, từng chút một mặc dù ngay lập tức (và “từng chút một mặc dù ngay lập tức này” chính là thời gian của hóa thân), trở thành bài ca bí ẩn, tưởng tượng, thứ mà luôn luôn xa cách, và thứ mà chỉ định khoảng cách này như một không gian để du hành, và nơi nó dẫn tới như một điểm tiếng ca có thể thôi là một cám dỗ.
Trần thuật có thể du hành trong không gian này, và điều lay động nó là sự biến đổi, mà sự tròn đầy trống rỗng của không gian này yêu cầu, một biến đổi, hành động ở mọi chiều hướng, tất nhiên một cách mạnh mẽ biến đổi người viết, nhưng biến đổi bản thân trần thuật không ít hơn, và [biến đổi] tất cả những gì đang hoạt động trong lòng trần thuật, nơi theo nghĩa nào đó không gì xảy ra cả trừ chính sự biến đổi này. Nhưng, với Melville, sự biến đổi ấy, ở đó, còn quan trọng hơn cuộc gặp gỡ với Moby Dick, một cuộc gặp gỡ xảy ra bây giờ, và “đồng thời” luôn luôn còn [đang] tới, nên ông không ngừng đi tới nó bằng một cuộc đeo đuổi hỗn loạn và không nao núng, nhưng bởi vì nó dường như có một mối quan hệ với nguồn cội, nó cũng dường như trả ông lại với sự thâm trầm của quá khứ: một trải nghiệm mà dưới sự mê hoặc của nó Proust đã sống và phần nào thành công trong sự viết.
Một số sẽ phản đối: sự kiện mà họ nói về trước nhất thuộc về “cuộc sống” của Melville, của Nerval, của Proust. Đó là bởi họ đã gặp gỡ Aurélia, bởi vì họ bị vấp trên mặt đường mấp mô, đã nhìn thấy ba gác chuông [những thứ] mà trước nhất ép họ viết về mình. Họ sử dụng nhiều nghệ thuật để truyền tải những ấn tượng thực sự của họ cho chúng ta, và họ là những nghệ sĩ là bởi họ nhận thấy sự ngang hàng - của hình thức, hình ảnh, câu chuyện, hoặc những ngôn từ - khiến chúng ta tham gia vào ảo ảnh gần gũi với ảo ảnh của họ. Những thứ ấy thật không may lại không quá đơn giản. Tất cả những mơ hồ khởi phát từ sự mơ hồ của thời gian, thứ có hiệu lực ở đây, và thứ cho phép chúng ta nói và cảm nhận rằng hình ảnh mê hoặc của trải nghiệm ấy là, vào một thời điểm nào đó, ở thì hiện tại, trong khi sự hiện diện này không thuộc vào bất cứ hiện tại nào, và thậm chí phá hủy cái hiện tại mà nó dường như gia nhập vào. Đúng là, Ulysses thực sự đã ra khơi, và, một ngày, vào một ngày nào đó, anh ta chạm trán bài hát bí ẩn ấy. Anh ta bởi thế có thể nói rằng: bây giờ, chuyện này đang xảy ra bây giờ. Nhưng điều gì xảy ra bây giờ? Sự hiện diện của bài hát vẫn chỉ sắp tới. Và điều gì anh chạm vào ở thời khắc hiện tại? Không phải là tình huống cuộc gặp gỡ ấy trở thành hiện tại, mà là sự mở đầu của vận động vô tận này, thứ là bản thân cuộc gặp gỡ ấy, một cuộc gặp gỡ luôn tách khỏi nơi chốn và khoảnh khắc trong đó nó được nói ra, vì nó là chính sự tách biệt này, khoảng cách tưởng tượng này, nơi sự vắng mặt được hiện thực hóa và chỉ ở sau rốt của khoảng cách ấy sự kiện đó mới bắt đầu xảy ra, một điểm nơi sự thật thực sự của cuộc gặp gỡ xảy ra, từ chốn đấy, trong bất cứ trường hợp nào, ngôn ngữ biểu đạt nó muốn được sinh thành.
Luôn sắp tới, luôn đã quá khứ rồi, luôn hiện tại trong một bắt đầu quá đột ngột đến mức bóp nghẹt hơi thở của anh, dù vậy vẫn giong buồm như một cuộc trở về và một bắt đầu vĩnh viễn ban đầu - “A,” Goethe bảo, “ở những thời nào đã sống trước đây, cô đã là chị hoặc vợ tôi” - Đó là sự kiện mà trần thuật là một tiếp cận tới. Sự kiện này lật nhào những vững chắc của thời gian, nhưng vẫn khẳng định thời gian, một cách đặc biệt để thời gian được hoàn thành, thời gian thuộc về riêng trần thuật, thứ dính líu đến cuộc sống đã sống của người trần thuật theo cái cách biến đổi nó, thời gian của những hóa thân nơi, trong một đồng thời tưởng tượng và dưới hình thức của một không gian mà nghệ thuật cố gắng tả thực, những trạng thái thống khoái khác nhau thuộc về thời gian cùng lúc xảy ra.
Đoàn Huyền dịch
Dịch từ tiểu luận Encountering the Imaginary, in trong tập The Book to Come, Maurice Blanchot, Charlotte Mandell chuyển dịch sang Anh ngữ, Stanford University Press, 2003, (page 3 - 10).
(TCSH392/10-2021)
------------------------------------------------------
1. Lời của Chúa trong Kinh thánh: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng lên trời đất… Đức Chúa Trời phán rằng: Phải có sự sáng; thì có sự sáng.” (Nd).
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.