HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Buổi sáng, tôi ngồi trong Gác Trịnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời đang se sắt chuẩn bị mưa, sự se sắt nằng nặng.
Vị khách đầu tiên của Gác Trịnh là 2 đóa hoa hồng!
Gần như những tháng ngày này, cái gì tôi nhìn thấy cũng như nằng nặng, cả bầu không khí mà chúng tôi đang hít thở. Áp thấp nhiệt đới trong những ngày cuối xuân sang hè đã khiến những chiếc lá xanh như đang cố mỉm cười giữa không gian ẩm mục mà ngay hơi sương cũng có vẻ dày hơn.
Tôi nhìn những vòm lá long não xanh tươi mươi như những giấc mơ phiêu bồng còn sót lại. Những giấc mơ có thể đưa ta đi đến cuối cuộc đời, nhưng những giấc mơ giờ đây với tôi như thể đang chết đuối. Chúng bất lực bởi không thể làm cho cõi sống thực tế bớt đi sự trần tục thô lậu. Cuộc sống ám màu lạnh lẽo của tâm lý vụ lợi, hưởng thụ vật chất đang làm đảo lộn các thang giá trị và khiến cho nhiều người cảm thấy khó thở. Sự tinh tế cuối cùng, sự thanh thoát cuối cùng, sự lãng mạn cuối cùng, những huyền thoại cuối cùng... hình như cũng đã và đang biến mất. Một khi thế giới không còn chỗ cho những huyền thoại được sống, sự trống rỗng hoang vắng sẽ lên ngôi. Và như thế thì thế giới sẽ buồn bã biết bao nhiêu!
Đó là một điều thật khó lòng chấp nhận. Càng khó lòng chấp nhận nếu sự hoang vắng đó xuất hiện ở xứ Huế - mảnh đất đầy tâm linh và huyền thoại, những tâm linh huyễn hoặc luôn xanh ngắt và luôn khước từ những toan tính vị kỷ và những giả hiệu.
*
Sự không chấp nhận đó, như một ám ảnh vừa tiếc nuối day dứt vừa hy vọng cứu vãn. Để rồi kéo dài những trưa tươi nắng nào đó ở vỉa hè Trương Định có những gánh cơm hến, bún bò nổi tiếng, những chiều xanh ngắt và vàng vọt nào đó ở Hắc Mộc Nhai bên con đường “phượng bay mù không lối vào” đối diện cửa Hiển Nhơn kinh thành, ý tưởng sửa sang lại căn nhà Trịnh Công Sơn cứ như tiếng tích tắc của kim đồng hồ kiên nhẫn gõ vào thinh không rằng, thời gian đã trôi đi mà những ấp ủ vẫn cứ như nằm kẹt cứng bên trong những khối bê tông lì lợm phức tạp của cuộc sống.
Cho đến một chiều đầy gió bên sông Hương trên đường Trịnh Công Sơn, Lê Huỳnh Lâm thông báo đang có cơ hội để sửa sang lại căn nhà Trịnh Công Sơn thành không gian lưu niệm như tâm nguyện của mấy anh em lâu nay. Tất cả ồ lên vui mừng. Chúng tôi chọn cho căn nhà cái tên Gác Trịnh là bởi không thể gọi đó là “Quán Trịnh” bởi không ai có ý định biến nơi đây thành cái quán, không thể là “Không gian Trịnh” bởi căn nhà rất nhỏ, không thể là “Nhà Trịnh” vì những lý do này khác... Cuối cùng, khi tên “Gác Trịnh” được nêu lên. Mọi người tán thành, đúng rồi, “một đêm bước chân về gác nhỏ”...
Buổi chiều, tôi gửi email cho họa sĩ Đinh Cường, báo tin một nhóm anh em văn nghệ sĩ Huế đang sửa sang lại căn nhà xưa của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sống ở Huế làm nơi lưu dấu để cho những ai yêu mến Trịnh có thể đến thăm. Sáng hôm sau, khi mở email, tôi đã rất xúc động khi nhận ngay bài thơ của anh:
“Gác Trịnh”, thầm mơ…
Một đêm bước chân về gác nhỏ
Chợt nhớ đoá hoa tường vi
(TCS - Đêm thấy ta là thác đổ)
Cành dạ lý hương năm nào bên cửa sổ (1)
để chiều nay mưa bay nhớ Sơn
khi nhận được tin căn nhà thuê ấy
nay thành Gác Trịnh cho bạn bè thăm
nhóm bạn Huế nói vừa thuê lại
tôi thầm mơ như nhà Hemingway
cái tẩu thuốc vẫn còn nguyên đó
trên bàn còn tập truyện Ngư Ông…(2)
Ôi nhớ lại một thời quần tụ
căn gác sau nằm say bên nhau
bức tường dán chân dung bè bạn
phác thảo từ đêm khuya lên men
Bửu Chỉ vẽ xong rồi tôi vẽ
và Sơn giành vẽ, đẹp vô cùng
chiếc ghế gỗ cây còn không ở đó
chiếc ghế nếu còn ôi bao nhiêu năm…
Virginia, 15 March 2013
------------------
(1) Bích Diễm ghé cắm cành dạ lý hương hái ở vườn nhà.
(2) Hemingway home tại Key West - Florida. Ngư ông và biển cả - The old Man and the Sea - giải Nobel văn chương 1954.
Chiều 1/4/2013. Lễ khai trương, cũng là dịp tưởng niệm 12 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Giáo sư Bửu Ý rưng rưng thắp nến cho người bạn của mình. Chương trình âm nhạc không cần nhiều tiết mục và chủ trương hát mộc. Tiếng đàn của danh cầm guitare Trần Văn Phú, giọng ca đặc biệt của Camille Huyền (Huyền Tôn Nữ Cẩm Hồng) thật sự đã truyền hồn nhạc Trịnh đến công chúng. Một người đàn ông giấu tên mang hai bó hoa đến nhờ Gác Trịnh tặng cho Camille Huyền và Trần Văn Phú. Người ta nhận ra trong số những người bạn của Trịnh Công Sơn năm xưa, còn có nghệ sĩ violon Trương Văn Thanh.
![]() |
Nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc giới thiệu về Gác Trịnh trong ngày Khai trương |
Một điều kỳ lạ là tại lễ khai trương, trong khi tôi giới thiệu về căn nhà này, một cánh bướm đã bay vào căn phòng lúc ấy đông chật người. Cánh bay của bướm thật vui và rộn ràng. Mọi người cùng ồ lên: “Anh Sơn về! Anh Sơn về!”... Nghệ sĩ violon Trương Văn Thanh kêu lên: “Sơn về trong ngày ni vui quá!”. Tôi im lặng nhìn cánh bướm bay rồi tiếp tục câu chuyện. Chợt cánh bướm sà xuống đậu lên tay áo của tôi, rồi bay đậu lên má tôi. Lúc đó tôi chợt nhận ra mình vừa thấy một hào quang màu thiền chợt lóe lên ngoài ô cửa, từ phía những kẻ lá của vòm long não ngoài kia, rọi vào Gác Trịnh...
Những hôm sau, cộng đồng facebook xôn xao về chuyện cánh bướm xuất hiện trong buổi khai trương Gác Trịnh. Rất nhiều người tin là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã bay về trên cánh bướm. Nhà thơ Phạm Anh Nga cũng kể: Hồi mình làm sách cho họa sĩ Bửu Chỉ, buổi giới thiệu sách cũng có cánh bướm như thế này bay đến, đậu một lúc lên những cuốn sách thơm rồi bay đi. Các anh linh thiêng ghê lắm!
*
Hôm sau, 2/4/2013, người tình nguyện trực Gác Trịnh để đón khách tham quan là một nhà thơ thân thuộc của Sông Hương. Tôi vừa đến Tạp chí Sông Hương đã nghe anh điện thoại: “Biết chi không? Vị khách đầu tiên của Gác Trịnh là hai đóa hoa hồng! Ai đó đã cắm hai đóa hoa hồng lên cửa sổ Gác Trịnh từ rất sớm”.
Tôi đứng lặng giữa phòng làm việc. Ít ra vẫn còn ai đó đang tiếp tục kể cho tôi nghe câu chuyện cổ tích mà từ lâu, tôi cứ ngỡ sự khô cằn bởi cuộc sống đương đại mà người ta chăm chăm đổ xô đi kiếm tiền, sẽ không còn ai kể nữa.
Trong gần sáu trăm ca khúc để lại cho đời, rất ít khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhắc đến hoa hồng. Nhưng chỉ trong bài “Tuổi đá buồn”, nhạc sĩ lại ba lần nhắc đến hoa hồng: “Đóa hoa hồng cài lên tóc mây... Đóa hoa hồng vùi quên trong tay... Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi”. Có lẽ hoa hồng từ độ đó đã có thêm một cái tên: hoa tuổi đá buồn.
Tôi và Lâm đến ngay, chụp hình lưu lại hai đóa hoa hồng tuyệt đẹp ấy. Chúng tôi đặt hai đóa hoa hồng lên chiếc ghế và nói rằng: Xin mời hoa hồng ngồi lên chiếc ghế kỷ niệm, đó là một vị trí xứng đáng. Chúng tôi rất vinh dự khi được các nàng hoa ghé thăm...
Chiếc ghế đó, như họa sĩ Đinh Cường kể lại trong đoạn cuối bài thơ “Gác Trịnh, thầm mơ...”, từng có lúc ba người bạn Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Bửu Chỉ thay nhau leo lên vẽ một bức tranh chung.
Hoa hồng - đó quả là những vị khách tuyệt vời.
*
Ít ra thì cánh bướm chiều khai trương Gác Trịnh cũng đã nhắc nhở những người chứng kiến, về lẽ vô thường. Như ngày xưa Dao Ánh đã từng viết cho Trịnh Công Sơn trong một hôm nhìn thấy màu hoa dạ lan sắp tàn ở khu vườn cách Gác Trịnh hiện giờ không xa lắm “Ôi màu mắt rồi có ngày cũng đổi màu như thế”.
Bút ký “Căn nhà của những gã lang thang” của Hoàng Phủ Ngọc Tường kể rằng từ trên ban công căn nhà này, Trịnh Công Sơn thường đứng ngắm người con gái qua cầu Phú Cam đi học dưới vòm long não ấy. Và chính Trịnh Công Sơn cũng đã từng nhắc đến trong hồi ức từ Gác Trịnh: “Thuở ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua những hàng long não xanh mướt để đến trường Đại học Văn Khoa ở Huế. Nhiều ngày, nhiều tháng của thuở ấy, người con gái ấy vẫn đi... Có rất nhiều mùa nắng và mùa mưa theo qua. Những mùa nắng ve râm ran mở ra khúc hát mùa hè trong lá. Mùa xuân mưa Huế, người con gái ấy đi qua nhòa nhạt trong mưa... Từ ban công nhà tôi nhìn xuống, cái bóng dáng ấy đi đi về về mỗi ngày bốn bận (...). Đi để được ngắm nhìn, để cảm thấy âm thầm trong lòng mình là một nhan sắc”.
Những bước chân thiên di ấy đã đi vào nhạc Trịnh, đi vào huyền thoại, đi vào những tâm thức ẩm ướt của bao thế hệ.
Chủ nhân của những bước chân huyền thoại ấy, là của “người con gái rất mong manh” Ngô Vũ Dao Ánh. Khu chung cư nhà Trịnh Công Sơn ở ngày xưa là nhà số 11/3 (nay là 203/19) thì nhà Dao Ánh ở bên kia cầu Phú Cam, số 3/11 Nguyễn Trường Tộ. Lạ chưa, hai nhà đổi số cho nhau. Ngày đó, vào những đêm khuya Huế lạnh tê lòng, Dao Ánh chong đèn ngồi viết thư rồi hái và ép trong thư những chiếc lá dạ lan còn ướt sương, gửi cho chàng Trịnh. Đến năm 1966, Dao Ánh rời Huế vào Sài Gòn, bỏ lại cho ai con đường có vòm long não, cây cầu bắc qua dòng sông An Cựu “nắng đục mưa trong”... Và để lại xứ Huế một huyền thoại khói sương huyễn hoặc phủ đầy một trời thương nhớ.
*
Nhưng dưới vòm long não ấy, từ chỗ Gác Trịnh hiện nay nhìn xuống, không chỉ có những bước chân huyền thoại thục nữ, ở đó vẫn còn vang vọng những bước chân siêu thực của những người bạn Huế một thời: Ngô Kha, Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Hoàng Phủ Ngọc Tường... Đó thật sự là những phiến vàng ròng của văn nghệ xứ Huế. Nhóm bạn đó thường có những cuộc rong ruỗi Huế bắt đầu từ nhà Trịnh Công Sơn, sau đó ra bờ sông Hương, sang cầu Trường Tiền... Họ đi và hát nhạc Trịnh trong vòm cây xôn xao gió lá, nghe Ngô Kha đọc thơ dưới những ánh đèn vàng: “Những người bạn của tôi đội nến đi trong đêm tối”... Cho đến bây giờ chúng ta nhận ra ca từ của nhạc Trịnh Công Sơn cũng rất siêu thực như thơ Ngô Kha, và nhiều khi rất gần nhau, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Ví như một câu thơ Ngô Kha hay đọc trong những đêm lang thang ấy: “Lần hồi sinh trên con tàu cuối cùng/ Chung quanh anh phù sa cát đỏ/ Anh hỏi thầm về đời mình/ Gỗ đá có buồn không?”, và một câu trong ca khúc của Trịnh “Ngày sau sỏi đá vẫn cần có nhau”, sao mà như đang khoác vai nhau đi, người hô kẻ ứng làm vậy! Và cái cách Trịnh Công Sơn nhìn người đẹp “vai em gầy guộc nhỏ”, “ngón tay em gầy nên mãi ru thêm ngàn năm”, “đóa hoa hồng tàn hôn lên môi, em gầy ngón dài”... sao mà khi xem tranh của Đinh Cường, lại rất hay gặp cái nét gầy và dài, phong thanh đài các và tài hoa của người con gái đến thế!...
*
Mỗi lần đến Gác Trịnh, tôi thường hay nhìn xuống phố từ ban công, thầm nhủ rằng đừng mơ mộng sẽ tìm được một bóng dáng người con gái như Diễm hay Dao Ánh năm xưa, hay một nhóm con trai với những bước chân siêu thực. Thế nhưng tôi vẫn cứ hay nghĩ rằng giá mà có thể... Việc dính đến quá khứ kiểu như thế này thường làm tôi bất giác trống vắng. Rất may là tôi sẽ trở vào trong, tìm giở lại những hình ảnh của hai đóa hoa hồng như vẫn còn tươi nguyên trong buổi sáng đó, và mỉm một nụ cười.
Vâng, cánh bướm, hoa hồng và Gác Trịnh, còn quá nhiều câu chuyện huyền thoại trên quê hương thần thoại mà chúng ta chưa khám phá hết, vậy thì tôi ơi, buồn để làm gì?...
H.Đ.T.N
(SDB9/6-13)
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.