Gabriel García Márquez - dừng lại và khai mở

09:43 16/05/2014

VIỄN PHƯƠNG

Vào ngày 06/03/1927, tại Aracataca, một thị trấn bên bờ biển Caribê, thuộc miền Bắc Colombia, Gabriel García Márquez ra đời. Và 55 năm sau đó, tên của ông được xướng lên tại Viện Hàn Lâm Thụy Điển dành cho giải Nobel Văn học năm 1982.

Người ta không thể thống kê hết những lời xiển dương dành cho nhà văn vĩ đại này, nhưng có một điều ai cũng biết là sự ra đi của ông vào ngày 17 tháng 4 vừa qua không phải là sự kết thúc của một cuộc hành trình, mà chính sự dừng lại của ông đã mở những con đường mới cho văn chương nhân loại tiếp tục dò sâu vào cõi cô đơn để ngợi ca nỗi buồn.

Khó có thể tìm thấy một cuốn tiểu thuyết nào để đối sánh với Trăm năm cô đơn của Márquez cả về văn phong, bút pháp và tư tưởng. Cuốn tiểu thuyết vĩ đại này là sự xuyên thấu, đan cài một cách lịch duyệt giữa hiện thực và siêu thực, nối kết một cách tinh tế nhất huyền thoại và đời sống. Với Trăm năm cô đơn, Márquez đã chứng minh rằng khả năng nới rộng biên giới và hình tượng để mở ra một hiện thực khác trong văn chương là bất tận. Márquez được xem là một trong số những nhà văn đã khai sinh Chủ nghĩa hiện thực thần kỳ trong văn học. Với khuynh hướng sáng tạo này, Márquez đã phá bỏ được tính chất nệ thực để hướng tới các cấp độ sáng tạo thực sự về văn phong, cấu trúc, hình tượng và quan trọng hơn là cách nhìn, cách lý giải về thế giới. Người đọc bắt gặp trong Trăm năm cô đơn một thế giới chấp chới giữa hiện thực và mơ mộng, giữa tỉnh và thức, giữa u mê của vô thức và sự thông tuệ của lý tính. Tính huyền thoại huyễn ma xen lẫn với không gian sinh hoạt đời thường đã tạo ra một thế giới đầy ám ảnh, một thế giới mang tính khiêu khích trí tưởng tượng. Trong Trăm năm cô đơn, thần thoại, huyền thoại của thổ dân da đỏ đứng trước sự xâm lấn của văn minh hiện đại đã tạo ra một tình thế xung đột để từ đó Márquez diễn tả cái cảm thức cô đơn ngự trị tới bảy thế hệ của dòng họ Buendia. Và ngay chính bản thân tác phẩm này cũng đã trở thành một huyền thoại trong văn chương của nhân loại. Huyền thoại ngợi ca tình yêu, ngợi ca sự cô đơn thẳm sâu của loài người. Tình yêu ở đây là tình yêu của những kẻ dị thường, những kẻ nghịch dị, quái dị và kể cả những kẻ phi thường. “Hỡi những con bò cái hãy dạng háng ra kẻo cuộc đời ngắn ngủi lắm.” Câu nói này của Aureliano Segundo chính là sự ngợi ca triết lý tình yêu của những kẻ nghịch dị, phàm tục.

Là người luôn song hành giữa vai trò vừa là một nhà văn vừa là một nhà báo, García Márquez đã gần như cống hiến trọn cả đời mình cho nghệ thuật và cuộc sống. Nếu như trong văn học, người ta thấy ở ông một nhà văn có trí tưởng tượng phong phú, có những tư tưởng lớn lao được triển khai dưới một bút pháp vững vàng thì trong báo chí, ông là một nhà báo luôn có ý thức dấn thân. Ông từng làm cho báo Momentos cùng Plinio Apuleyo Mendoza. Ông thường viết về các chế độ chuyên chế ở Mỹ Latinh. Theo wikipedia.org thì năm 1960, ngay sau khi Cách mạng Cuba thành công, García Márquez tới quốc gia này làm phóng viên cho hãng thông tấn Pren- sa Latina và làm bạn với Fidel Castro. Năm1961, ông tới New York với tư cách phóng viên thường trú của hãng Prensa Latina của Cuba. Sau đó ông quyết định tới cư trú ở Mexico và bắt đầu với điện ảnh bằng việc viết kịch bản phim.
 

Bên cạnh Trăm năm cô đơn thì Tình yêu thời thổ tả cũng được xem là một trong mười cuốn sách hay nhất trong thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Tác phẩm được xuất bản năm 1985, tác giả viết ngay sau khi ông đoạt giải Nobel Văn học năm 1982 và được tạp chí New York Times đánh giá là một trong những thiên tình sử đẹp nhất mọi thời đại, là “tuyên ngôn cho sự bất diệt của trái tim”. “Có thể nói, Tình yêu thời thổ tả là một bản cáo trạng đanh thép đối với một xã hội hủ lậu dựa trên sự đánh giá con người không bằng phẩm giá người mà bằng số của cải anh ta có được. Nó đã bóp chết bao mối tình trong sáng và tươi đẹp. Muốn có tình yêu và hạnh phúc tình yêu, con người nhất thiết phải được giải phóng khỏi xã hội đó. Nhưng tác giả đã không dừng lại ở chỉ một thông điệp này, ông còn đi xa hơn nữa khi nói rằng: Tình yêu thời thổ tả là sự suy nghĩ về tình yêu của con người ở mọi lứa tuổi. Con người không chỉ yêu nhau khi đang độ thanh xuân, khi đang ở tuổi tráng niên mà còn yêu nhau khi đã tóc bạc răng long và chính ở tuổi này, họ yêu nhau chân thực hơn và vì thế cũng da diết hơn, si mê hơn. Với Tình yêu thời thổ tả, tình yêu đích thực là chiếc chìa khóa vàng giúp con người mở cửa tâm hồn mình, để hòa vào nhau, đến với nhau trong cuộc đấu tranh chống lại nỗi cô đơn muôn thuở” (Trích Lời giới thiệu cuốn sách của Nxb. Văn học năm 1995).

Bên cạnh đó những kiệt tác như Ngài đại tá chờ thư; Giờ xấu; Tướng quân giữa mê hồn trận; Mùa thu của ngài trưởng lão,… được xem là những tác phẩm chứng tỏ một nội lực sáng tạo mạnh mẽ, một kiến văn sâu rộng bậc nhất và những biến đổi thi pháp không ngừng của nhà văn lừng lẫy này. Đi sâu vào sự cô đơn của con người, kêu gọi lương tri thức tỉnh, dự báo cho những chướng ngại nhận thức và tiên báo về sự hủy diệt của thế giới là điều thường thấy trong văn chương của Márquez. Sự lặp lại trong cách đi sâu vào nỗi cô đơn không phải là một sự bế tắc trong sáng tác của ông mà điều đó cho thấy tầm nhìn của một nhà văn vĩ đại khi nghệ thuật của ông luôn khởi đi từ bị kịch của con người, của thân phận. Cuộc đời của Márquez hầu như được ông lột tả trong thế giới văn chương của mình. Đó là cuộc đời của một nhà văn mang nặng ưu tư, luôn mắc kẹt giữa hai mặt đối lập là huyền thoại của tiền nhân và sự lớn mạnh, xâm lấn của văn mình hiện đại, giữa cái cũ và cái mới.

Sự ra đi của nhà văn vĩ đại này là một sự tổn thất to lớn của văn chương nhân loại. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, Tổng thống Mỹ - Barack Obama cho rằng thế giới đã mất đi “một trong những nhà văn có tầm nhìn lớn nhất”. Tổng thống Colombia Juan Manuel Santos viết rằng: “Một ngàn năm cô đơn và nỗi buồn trước cái chết của một người con Colombia vĩ đại nhất của mọi thời đại. Xin gửi lời chia buồn tới vợ và gia đình ông... Con người vĩ đại ấy không bao giờ chết.” Tổng thống Mexico Enrique  Nieto cũng không ngần ngại khi cho rằng Márquez là “một trong những nhà văn vĩ đại nhất của thời đại chúng ta”.

Chúng ta hi vọng gì về sự lớn mạnh của văn chương hiện thực huyền ảo ở Việt Nam sau khi cây đại thụ của khuynh hướng sáng tác này rời xa thế gian? Có thể thấy rằng trong những nhà văn được trao giải Nobel Văn học của thế kỷ XX, Gabriel García Márquez là tác giả được chuyển sang Việt ngữ vào loại nhiều nhất, số lượng độc giả hâm mộ ông ở Việt Nam cũng không ít. Đó chính là một trong những yếu tố để văn học đương đại Việt Nam có thể nối dài, khai mở bút pháp và tư tưởng của văn học hiện thực huyền ảo. Tất nhiên việc nắm bắt nguyên tắc sáng tác của văn học hiện thực huyền ảo không phải là trò chơi mà bất cứ nhà văn nào cũng có thể tìm tới để thử nghiệm. Việc biến hiện thực thành hoang đường nhưng vẫn luôn gắn bó chặt chẽ với hiện thực, kết hợp những yếu tố hoang đường, huyễn ma với không gian sinh hoạt thường ngày mà không gây nên những hạt sạn trong sự cấy ghép là một trong những thách đố đối với lối viết vốn quen thuộc với sự mô phỏng của nhà văn Việt Nam.

Và tất nhiên khi ngòi bút của García Márquez dừng lại cũng là lúc chúng ta nghĩ về việc cần phải ý thức được sức mạnh thực sự của văn chương hiện thực huyền ảo để từ đó mở ra những chân trời mới. Bởi chúng ta không thiếu cô đơn, không thiếu huyền thoại và những điều nghịch dị, phi lý trong chính cuộc sống của chúng ta.

V.P
(SH303/05-14)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Cuốn tự truyện lần đầu được xuất bản của nữ nhà văn Laura Ingalls Wilder - tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên” - sẽ cho độc giả được biết những điều không như mơ đằng sau cuộc sống được “tô vẽ” trong cuốn tiểu thuyết…

  • Trong tác phẩm trình bày những suy ngẫm về đạo Thiên Chúa, “Bức thư gửi một linh mục” (Letter to a Priest)  được viết một năm trước khi tác giả qua đời vào năm 1943, Simone Weil đã đưa ra một nhận định đáng lưu ý: “Đối với bất kỳ người nào, việc đổi tôn giáo cũng là điều nguy hiểm như việc đổi ngôn ngữ đối với một nhà văn. Nó có thể thành công song cũng có thể dẫn đến những hậu quả khốc hại.”

  • ROBERT J.C. YOUNG(1)  

    "Chủ nghĩa hậu thực dân/hậu thuộc địa” (postcolonialism) là thuật ngữ được sử dụng để định danh cho một loại hình nghiên cứu học thuật liên ngành kết hợp giữa chính trị, lí thuyết và lịch sử; được xây dựng nhằm mục đích tạo ra một diễn đàn xuyên quốc gia cho những nghiên cứu lấy nền tảng là bối cảnh lịch sử của chủ nghĩa thực dân cũng như bối cảnh chính trị của những vấn đề đương đại của quá trình toàn cầu hóa.

  • Một nghiên cứu mới cho thấy người Ai Cập cổ đại có thể đã bắt đầu ướp xác sớm hơn 1.500 năm của so với dự đoán ban đầu.

  • Kênh đào Panama đã chính thức khai trương cách đây đúng một thế kỷ, vào ngày 15/8/1914. Bất chấp việc phải đối mặt với nhiều thách thức trong thời đại mới, sự kỳ vĩ của nó vẫn khiến người ta không khỏi kinh ngạc.

  • Mới đây, Travellers and Magicians (2003), bộ phim dài đầu tiên của điện ảnh Bhutan, được chiếu ở Bangkok (Thái Lan), đã khiến người xem suy ngẫm về đất nước nhỏ bé nhưng nổi danh toàn cầu về “chỉ số hạnh phúc” này.

  • Sự trỗi dậy của tổ chức Nhà nước Hồi giáo đang gây thiệt hại nghiêm trọng cho những khu di tích văn hóa ở Iraq và Syria.

  • Bộ sách "Hành trình về Phương Đông" của tác giả giả Baird T. Spalding, khám phá bí ẩn tâm linh của vùng đất Ấn Độ, lần đầu được phát hành trọn bộ ở Việt Nam.

  • Alfred Eisenstaedt - nhiếp ảnh gia của tờ Life - nhớ lại lần chụp hình với đại văn hào ở Cuba. Ông bị nhà văn "đòi giết" trong cơn say xỉn.

  • Họ là những con người tài năng nhất trong giới văn chương nhưng cũng đồng thời là những con người có số phận bi đát không kém.

  • Tiểu thuyết gia Nhật Bản từng yêu một cô gái mồ côi làm phục vụ bàn. Họ đính ước nhưng không bao giờ trở thành vợ chồng bởi cô gái đột ngột hủy hôn không một lời giải thích.

  • WILLIAM GRIMES 

    Một ngôn ngữ khác” - tác phẩm mới của Francesca Marciano, kể về một thiếu nữ Ý tên Emma si tình tiếng Anh. Sự cuốn hút của thứ tiếng ấy đến từ người bản địa là một cậu bé Anh Quốc hấp dẫn tại khu nghỉ mát ở bãi biển Hy Lạp mà Emma đang sống cùng gia đình. Thế nhưng thật khó tách bạch sự ràng buộc với ham muốn. Phải chăng cậu chính là chiếc vé mở lối cho chị đến với tiếng Anh, hay ngược lại?

  • NADIA DIUDINA (*)

    Còn ngồi trên máy bay mà trái tim tôi đã đập rộn ràng. Khi nghĩ đến cuộc gặp gỡ với Mêsôra yêu dấu, với quê hương của Êxênhin - nhà thơ cùng quê.

  • Chàng thổ dân bận chiếc khố bằng lá cây, mình trần cháy nắng, khẽ khàng bước sâu vào bụi rậm để tiến lại gần con mồi. Trên tàng cây cao, những con chim vẫn đang véo von. Anh dừng lại, nhẹ nhàng rút mũi tên từ trong túi nhỏ đeo bên người cẩn thận đặt vào cái ống dài, đưa lên miệng nhắm vào con chim gần nhất rồi… thổi mạnh. “Phụp”, một tiếng gọn nhẹ vang lên và con chim rơi xuống.

  • HUYỀN SÂM - TUYẾT MAI

    Từ một huyền thoại trong Kinh thánh, Judas đã bước ra cuộc sống như một mệnh đề đạo đức có tính phổ quát. Nhiều lĩnh vực như hội họa, điêu khắc, điện ảnh đã lấy Judas làm chất liệu tượng trưng cho bản tính phản trắc của con người. Tuy nhiên, ở lĩnh vực tiểu thuyết, Judas được luận giải rất đa chiều, thậm chí có tính phản đề, nhất là sau sự kiện phát hiện về Kinh Phúc âm theo Judas(1).

  • Mới đây, các thành phố triều đại Pyu của Myanmar đã lọt vào danh sách 1.000 địa điểm trên toàn cầu được công nhận là Di sản thế giới của UNESCO.

  • UNESCO vừa chính thức công nhận danh hiệu Di sản Thế giới cho một di tích cổ xưa nổi tiếng - đường mòn Inca chạy qua 6 quốc gia Nam Mỹ.

  • Một hang động thời tiền sử ở miền nam nước Pháp, hang Grotte Chauvet, với rất nhiều bích họa được coi là những tác phẩm nghệ thuật thuộc vào hàng sớm nhất thế giới, vừa được công nhận là di sản thế giới.

  • Đó là tít bài viết trước giải vô địch bóng đá thế giới 2014 (2014 FIFA World Cup - Brazil) lần thứ 20 tại Brazil, được đăng trên nhật báo Bild, Đức của đương kim Tổng thống Đức Joachim Gauck, người Đông Đức, từng đồng sáng kiến hoạch định chương trình tái thống nhất nước Đức, luôn dấn thân cho sự nghiệp đấu tranh vì quyền của mỗi người dân cả trong lẫn ngoài nước.

  • Vừa qua, các đài truyền hình ở Ấn Độ đã trình chiếu chương trình truyền hình về cuộc đời Đức Phật trên kênh Doordarshan và Zee TV. Hai kênh này được phát sóng rộng rãi khắp nước Ấn Độ và cả khu vực Nam Á. Mới đây nhất, phần 39 của chương trình đã được phát sóng vào ngày 25-5-2014.