Festival Huế 2006 với ông Hoàng Phủ

10:10 11/12/2008
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHĐêm hè từ 7 giờ tối tới 7 giờ sáng. 12 giờ liên tục nhận những cái rùng mình trong toa máy lạnh ghế mềm chuyến tầu xuyên Việt. 9 giờ sáng xuống Huế. Cơn mưa rớt bão Chanchu đã tạnh. Nắng Huế nhức đầu. Khách sạn Duy Tân. Nằm đọc Tạp chí sông Hương.

Tình cờ gặp nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trên những con chữ bài viết: Huế, Festival và tôi Ông Hoàng Phủ bày tỏ hiểu biết và tình cảm náo nhiệt dành cho lễ hội Festival và ông còn mách cho mấy cái mẹo làm Festival. Cuối bài, ông hạ một câu Huế là nơi tôi đã rong chơi và còn muốn trở lại.
Trước hết, tôi muốn giải thích vì sao gọi là ông Hoàng Phủ. Có gì đâu. Đã lâu rồi, một lần cầm tờ tạp chí in mấy bài thơ của mình, ông đã buột miệng than thở: cái tên Hoàng Phủ Ngọc Tường dài quá. Bỏ Ngọc Tường chỉ lấy bút danh Hoàng Phủ dễ nghe hơn.

Hoàng Phủ nổi tiếng trong văn đàn mấy chục năm nay là cây bút ký có hạng. Có người cao hứng xếp ông chỉ đứng sau cụ Nguyễn Tuân về thể ký. So kè như thế là khập khiễng. Mấy ông viết văn không giống mấy ông vận động viên chạy nước rút 100 mét ở thế vận hội thể thao xếp hạng nhất, nhì, ba huy chương vàng, bạc, đồng rõ rành. Ký của cụ Nguyễn Tuân là sự đùa rỡn và nâng niu sang trọng tỉ mẩn từng con chữ. Cụ bày mê hồn trận con chữ như bày trận đồ bát quái. Người đọc lạc vào trận đồ của cụ chóng mặt chỉ còn thấy những thành vách, những cửa tử, cửa triệt, những trò chơi ú tim, trốn tìm. Đầu óc mê man nghĩ rằng trên đời này chỉ có quần áo hình hài là quan trọng hơn cả. Có thể vì thế mà mấy người ác khẩu nói rằng văn của cụ chỉ có chữ, không có tư tưởng. Ký của ông Hoàng Phủ khác. Ta thấy lối hành văn của Hoàng Phủ đẹp và minh triết chịu nhiều ảnh hưởng của trật tự suy tư Pháp. Đặc biệt, văn Hoàng Phủ thích làm dáng. Cái lối làm dáng triết học của người có sức đọc rộng. Hoàng Phủ ưa dãi bày tư tưởng, cảm xúc theo cái cách giảng bài của mấy ông nhà giáo. Cái lối này thường gây phản cảm khiến cho người đọc kính phục mà ngại gần gũi, thân mến với ông.

Tôi ghi lại mấy nhận xét trên về ký cụ Nguyễn và ký Hoàng Phủ. Không phải của tôi. Của một thạc sĩ văn chương 26 tuổi, mặt non choẹt, đang tu nghiệp tại Hà Lan. Ghi cho vui thôi chứ không có mưu hèn gì.
Cách đây 8 năm. Vào đúng World cup 1998. Ông Hoàng Phủ ngồi máy lạnh phòng kín xem đá bóng. Rồi ông mở cửa đột ngột chạy ù qua cái sân rộng nóng hừng hực. Thay đổi nhiệt độ quá xốc. Ông bị tai biến mạch máu não liệt giường. Rồi những năm tháng dằng dặc tiếp nối. Bạn bè đồng nghiệp văn nhân tận mắt cảnh vợ chồng ông túi xách, xe lăn rong ruổi lặn lội khắp ba miền Trung, , Bắc. Hễ nghe ở đâu có thuốc quí, thuốc gia truyền là tìm đến tận nơi. Cái ham sống lãng mạn mơ màng của người nghệ sĩ cộng với cái phải sống trần trụi, quyết liệt của con bệnh hiểm nghèo đã giúp Hoàng Phủ không chầm chậm rơi vào bóng đêm đời sống thực vật. Ông chầm chậm nói được, chầm chậm nghe được, chầm chậm nghĩ được. Và bút danh Hoàng Phủ lại xuất hiện trên những trang báo, những tập sách.

Người vợ vất vả của ông là nhà thơ Mỹ Dạ gọi phôn mời anh em chúng tôi tới nhà dùng bữa cơm ngày giết sâu bọ. Giọng Huế của chị dịu dàng vậy mà cũng không dễ nghe với người Bắc. Nhầm địa chỉ ở phố Phan Bội Châu ra phố Phan Châu Trinh nên lại thêm một chuyến Taxi cắm cờ Festival. Trưa Huế oi ả kinh khủng. Ngôi nhà nhỏ của vợ chồng ông mát mẻ, duyên dáng, sạch sẽ và đầy nữ tính. Ông Hoàng Phủ nằm trên giường lầu hai. Nhìn thấy khách, ông nhổm lên nở nụ cười sung sướng. Ông cám ơn. Và ngay lập tức bíu tay vào mấy dóng sắt ở đầu giường tự bò dậy ngồi vào xe lăn.

Bữa cơm Huế giết sâu bọ đậm đặc chất Huế. Tôm luộc. Thịt ba chỉ xắt mỏng tang. Mắm tôm chua. Mắm nhút. Cà muối. Canh chua. Cá hấp và cơm gạo trắng. Cũng có dăm chai bia Festival. Ông Hoàng Phủ ngồi xe lăn. Ông uống bia. Ông ăn tôm, ăn cá. Nhà thơ Mỹ Dạ ngồi cạnh ân cần làm cô Ô sin chăm nom. Trò chuyện linh tinh. Toàn chuyện văn nghệ. Ông Hoàng Phủ nói nhiều. Rất nhiều. Vẫn thói quen của người đọc nhiều, đọc rộng. Khách ngồi gật gù, chống đũa, vểnh tai nghe lõm bõm câu được câu chăng lắm lúc như ngôn ngữ bất đồng ông chẳng bà chuộc. Chị Mỹ Dạ ngồi bên mỉm cười hiền lành làm chân phiên dịch. Bữa cơm giết sâu bọ tàn theo ánh nắng quá ngọ xiên chéo. Ông Hoàng Phủ mệt. Cáo lỗi. Lên giường nằm nghỉ. Ông nằm nghiêng. Quay mặt vào tường. Im lặng. Ông thức hay ngủ. Không biết. Hình như ông muốn chúng tôi hãy quên ông đi. Ngồi uống nước lặng lẽ nghe chị Mỹ Dạ hát nhớ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bài hát chị phổ nhạc thơ của chị. Rồi câu chuyện xoay quanh tập thơ của bé Hoàng Dạ Thi. Nhắc lại lời thán phục của Trần Đăng Khoa. Bé Hoàng Dạ Thi năm 2006 đã là một thiếu phụ 30 tuổi. Thời gian trôi quá nhanh. Đời người cuống quít.  Cái gì tàn rữa. Cái gì còn lại mãi mãi tươi xanh. Câu hỏi đó để lại dấu vết khắp nơi, trên từng mặt người. Câu trả lời thì lẩn chốn ở đâu, ở khắp nơi, trên từng mặt người? Bí ẩn và thách đố! Anh nhạc sĩ trẻ tuổi đầu húi trọc ngồi cạnh cửa lẩn mẩn chấm từng con kiến đen bỏ vào mồm ăn ngon lành. Ngón tay dịu dàng của người nghệ sĩ bỗng chốc hóa thành lưỡi hái ghê rợn thần chết của bày kiến đen vô tội thất thần hoảng chạy tán loạn. Câu trả lời lẩn trốn nơi đâu, ở đâu, ở thân phận con kiến yếu ớt, bé nhỏ, mỏng tanh đang cuống cuồng trên cái nền gạch thênh thang, bóng loáng chói lòa ánh nắng.

Năm 1975 bọn tôi tràn qua đây - qua Huế. Không phải rong chơi một kiếp văn nhân mà lính trận. Xích xe tăng gằn trên cầu Trường Tiền và khói súng khét lẹt, tanh tưởi quần đảo bao bọc xác người. Năm đó ông Hoàng Phủ đã nổi danh nhân sĩ trí thức theo Cách mạng làm văn nghệ Cách mạng. Lính Bắc ngưỡng mộ những bài thơ, những trang viết của ông. Tìm một Huế không phải qua màn lửa chiến tranh mà qua những người như ông Hoàng Phủ. Huế là đất hiền nuôi dưỡng biết bao văn nhân nghệ sĩ danh tiếng lẫy lừng. “Qua nhiều thế kỷ, người Huế đã tạo nên một truyền thống văn học riêng, một hệ thống ngữ âm và ngữ sắc riêng, một triết lý nhân văn biểu hiện qua những phong tục ứng xử và thờ phượng, cách nấu ăn và may mặc, lễ hội và giải trí riêng. Tất cả tài sản văn hóa phi vật chất đó đều được diễn đạt bằng giọng Huế và trong cả cái hay lẫn cái dở của nó đã tạo nên một bản sắc riêng gọi là tính cách Huế”. Ông Hoàng Phủ đã viết như vậy. Huế ngắn gọn và khúc triết.

Năm 2000 Huế tổ chức Festival đầu tiên. Rồi được chọn là địa chỉ duy nhất Thành phố Festival. Cứ hai năm một lần tổ chức lễ hội. Rủ nhau vào Huế, nơi đầu tiên bọn tôi đến thăm không phải Tử Cấm Thành cũng không là làng Dục Đức. Đến thăm ông Hoàng Phủ. Không phải vì ông đang bạo bệnh liệt giường mà vì mến tài văn chương của ông. Cô nghệ nhân hát Cọi người Tày Hà Giang nói là xưa kia hình như ở Huế có ba văn nhân nổi tiếng Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trịnh Công Sơn, Đinh Cường. Nổi tiếng vì mê làm văn nghệ. Nổi tiếng vì họ chơi với nhau gần gụi như ba anh lính trận trong cùng một tổ tam tam (tổ 3 người). Cái đơn vị bé nhất. Cái hạt nhân nguyên tử của trùng điệp các tiểu đội, trung đội, tiểu đoàn, sư đoàn hàng triệu người lính.
Chiều đã từ lúc nào. Tạm biệt ngôi nhà nhỏ của ông Hoàng Phủ, Chị Mỹ Dạ ân cần đưa chúng tôi ra đầu kiệt (ngõ). Có vài ly bia và chơi chơi ăn vã mấy con kiến đen mà đầu óc choáng váng men say. Ngồi trong Ta xi cắm cờ Festival cứ ong ong một câu hỏi. Cái gì tàn rữa. Cái gì còn lại mãi mãi tươi xanh. Ở nơi đâu. Ở chốn nào. Trên gương mặt người. “Huế là nơi tôi đã rong chơi và tôi còn muốn trở lại”.

Ông Hoàng Phủ đang nằm nghiêng, quay mặt vào tường. Ông ngủ hay  thức hay ông đang rong chơi. Hai chân liệt vô cảm. Hoàng Phủ rong chơi không phải bằng đôi chân. Ông rong chơi bằng cái đầu thích rong chơi. Một nửa bước ngoài phố kia thôi là Huế của những ngày đầu tháng 6 nóng điên đầu đang cuộn lên với hàng vạn du khách hòa lẫn với hàng chục vạn người xứ Huế - Dòng người ồn ào đó đang hớn hở, thích thú và say mê rong chơi trong lễ hội Festival 2006 tưng bừng. Có ai nhìn thấy một Hoàng Phủ Ngọc Tường thi sĩ, một Hoàng Phủ Ngọc Tường nhà báo của xứ Huế đang háo hức hòa trộn trong biển người náo nức đó?.
Festival Huế 6/6/2006
N.Đ.C

(nguồn: TCSH số 209 - 07 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh.                                                                TCSH

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

  • ...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...

  • ... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta!                                 (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)

  • ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

  • NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.

  • TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà  mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.

  • LÊ MỸ Ý ghi                (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...

  • MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

  • THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

  • PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.

  • NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.

  • VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.

  • L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.

  • L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới

  • ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.

  • THU NGUYỆT                (Trích tham luận tại Đại hội VII  Hội Nhà văn Việt Nam)